ĐỊA PHƯƠNG QUÂN và NGHĨA QUÂN của QLVNCH (Long Điền)

Sử Trung Quốc

Sử Trung Quốc.

Sau Hoa Lài Tunisie đã có Hoa Sen tại Ai Cập , còn hoa gì sẽ nở tại Việt Nam? Bài của Long Điền 2011.

Sau Hoa Lài Tunisie đã có Hoa Sen ti Ai Cp , còn hoa gì s n ti Vit Nam?

  Tháng Hai 13, 2011

A-Diển biến các vụ biểu tình:

Trong vòng chưa đầy một tháng mà bao biến cố đặc sắc đã nở rộ trên vòm trời Bắc Phi và lan ra cả thế giới. Đặc biệt ở đây là hoàn toàn không có bàn tay của thế giới Phương Tây, không có CIA, không có thế lực ngoại bang nào nhúng tay mà chủ yếu là do chính người dân bị trị trong các nước độc tài Khối Á Rập (Bắc Phi) vùng lên lật nhào 2 chế độ Độc Tài chuyên bóp nghẹt Tự Do lại được Phương Tây ủng hộ suốt gần 30 năm qua.

Đầu tiên là cuộc xuống đường ngày 17 tháng 12 năm 2010 tại Tunisia (Một xứ nhỏ thuộc Khối Á Rập ven Điạ Trung Hải ,  cựu thuộc điạ của Pháp , được Độc Lập từ  năm 1956 ) một sinh viên  tốt nghiệp đại học tên  là Mohamed Bouazizi bị thất nghiệp nên phải đi bán trái cây dạo, bị Cảnh sát bắt đòi hối lộ, anh nầy phẫn uất tự thiêu và sau đó chết ngày 4 tháng 1.2011. Vụ tự thiêu này là vụ đầu tiên tại A-rập Saudi, kể từ khi một vụ tự thiêu khác ở Tunisia đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy lật đổ tổng thống.

Theo nhận định của VOA ngày 21 tháng 1.2011 thì nguyên nhân là :

“Tổng Thư Ký Liên đoàn các nước Ả Rập, Amr Moussa, cảnh báo các nhà lãnh đạo Trung Đông vùng này bị đổ vỡ vì nghèo nàn, thất nghiệp và một sự tuột dốc nói chung về kinh tế.” Theo tôi nguyên nhân chủ yếu là chế độ độc tài, bóp nghẹt Dân Chủ Tự Do, tham nhũng tràn lan là nguyên nhân chính dẩn đến biểu tình lật đổ chế độ do Tổng Thống Ben Ali cầm đầu từ 23 năm qua.

Thành phần tham gia biểu tình ban đầu bao gồm thanh thiếu niên Tunisie, sau đó có sự tham gia của nhiều thành phần bất mản chế độ từ nhiều năm qua nhưng chưa dám vùng lên vì chính sách công an trị hà khắc,dâp tắt đối lập từ trong trứng nưóc của TT Ben Ali và đồng bọn. Kế đến là lực lượng cảnh sát tham gia cùng đứng chung với người dân trong các cuộc biểu tình ôn hoà lẫn bạo động.

             Ngăn chận thông tin toàn cầu (Internet như Facebook, Twitter, Yahoo mail v.v…) cũng là một trong các nguyên nhân sâu xa dẩn đến sự sụp đổ một chế độ tuy có ổn định kinh tế nhưng mất Tự Do trong thời đại thông tin toàn cầu.

Về phiá người Việt Hải Ngoại  thì linh mục Gioan Baotixita Đinh Xuân Minh,từ Đức Quốc ngày  28.tháng 1 năm 2011 đã có nhận định như sau:

 “Đầu năm 2011, cả thế giới ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy người dân Tunesien đứng lên lật đổ chế độ độc tài Zine el Abidine Ben Ali. Và liên tục, chúng ta cũng đang thấy người dân Algerien và Ai-Cập cũng đang xuống đường giải thế chế độ độc tài tham nhũng. Tại thủ đô Algier của Algerien, tại Thủ đô Amman của Jordanien, dân chúng hô to những khẩu hiệu: “Bánh mì và tự do“; “Chấm dứt việc đàn áp!“, “Đất nước thuộc chúng tôi“, “Dân là chủ!“.

“…Trong nước, thì dân Tunesien xua đuổi những kẻ độc tài như Ben Ali. Ra ngoài, thì quốc tế truy nã tay cường hào ác bá cùng với vợ là Leila Trabelsi cùng những thành viên thuộc gia đình trị độc tài tham nhũng, nhất là bên vợ. Những kẻ bất nhân này, không những không có chỗ đứng trong lòng dân tộc của họ, mà không những vậy, họ cũng không có chỗ đứng trong lòng nhân loại văn minh thế giới. Họ chạy đâu cho khỏi lưới trời! Chạy Trời sao cho khỏi nắng là vậy! Và chắc chắn đây cũng là hình phạt tiêu liệu cho tất cả những tay cai trị độc tài bất nhân thất đức.”

Điều đặc biệt trong cuộc biểu tình thành công nhanh chóng tại Tunisie là cuộc biểu tình không cần  lãnh tụ. Mà là sức mạnh của toàn dân, của người dân bị áp bức, họ đã tự động đúng lên cùng nhau  lật đổ chế độ độc tài, lạc hậu của Ben Ali  và thiết lập một chính thể mới.Sau gần một tháng tranh đấu ôn hoà nhưng cương quyết không nhượng bộ bạo quyền của toàn dân Tunisie, TT độc tài Ben Ali đã đào tẩu sang Saudi Arabia ngày 18.1.2011. Quyết định ra đi đào thoát của Ben Ali sau khi có sự can thiệp của tướng Tư lệnh Lục quân của Tunisia. Chính ông tướng này đã yêu cầu Tổng thống ben Ali phải rời khỏi đất nước. Kết quả trên cho thấy quân đội  đã đứng về phía nhân dân Tunisie  cho nên tổng thống độc tài Ben Ali dù ngoan cố cũng phải chấp nhận đào tẩu để trả quyền tự quyết cho toàn dân.Sự th ành công nhanh chóng nầy dù sao cũng đã trả giá trên 100 nhân mạng tử vong. Họ xứng đáng hy sinh trong mưu cầu hạnh phúc và sự thịnh vượng của toàn dân Tunisie.

Ngay lập tức sau cuộc bạo loạn tại Tunisie đã gây một phản ứng dây chuyền (domino)  lan truyền sang nhiều nước Bắc Phi và Hồi Giáo như  Ai Cập, Algérie, Maroc, Yémen, Jordan, Sudan v.v…lần lượt biểu tình vừa ôn hoà  và có cả bạo loạn, lần nầy thì số lượng biểu tình không phải là hàng chục ngàn như tại Tunisie mà là hàng triệu người tham gia như tại Ai Cập.

http://vietcongonline.files.wordpress.com/2011/02/2aa9.jpg?w=700

http://vietcongonline.files.wordpress.com/2011/02/3aa6.jpg?w=700

Quốc gia Ai Cập rộng lớn gần 10 lần Tunisie, do đó quy mô các cuộc biểu tình rầm rộ và sự hưởng ứng mãnh liệt của 80 triệu dân Ai Cập. Mặc dù quân đội Ai Cập tuyên bố không bắn vào dân biểu tình nhưng nhiều cuộc đụng độ giửa phe biểu tình và chống biểu tình, đã có cảnh xe thiết giáp bị đốt cháy. Đồng thời TT Mubarak của Ai Cập giai đoạn đầu không chấp nhận từ chức và tuyên bố không chấp nhận bạo loạn và sẽ sử dụng quân đội, cảnh sát để vản hồi trật tự. Tình hình có lúc tưởng chừng như sẽ đổ vở và một cuộc bạo loạn rộng lớn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào.

B-Quan điểm của phía quốc tế :

 -Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc lo ngại bạo loạn xảy ra tại vùng Trung Đông và Bắc Phi. Phản ứng của Liên Hiệp Quốc là ngăn chận các vụ đàn áp người biểu tình.

 -Tổng thống Mỹ Obama kêu gọi :”TT Mubarak phải giải quyết các yêu sách của người biểu tình và kêu gọi sự bàn giao quyền lực một cách ôn hoà”. Nhưng phó tổng thống Joe Biden thì nói rõ hơn là Hoa Kỳ ủng hộ phe biểu tình Ông nói Hoa Kỳ đã ủng hộ cho một loạt các nguyên tắc căn bản trong cuộc nổi dậy này – trong đó có kêu gọi không sử dụng bạo lực để đối phó với những người biểu tình, tôn trọng những quyền của nhân dân Ai Cập và đáp ứng các khát vọng của nhân dân.

Điều nầy nói lên lập trường của Hoa Kỳ mặc dù ủng hộ chính phủ Mubarak từ 23 năm qua để giúp ổn định vùng Trung  Đông và Bắc Phi chống lại thế lực Hồi Giáo quá khích, mặc dù hằng năm viện trợ cho chính phủ Mubarak 1,3 tỷ USD, mặc dù biết trước là sự thay đổi chính phủ Mubarak sẽ có thể thay đổi chính sách Á Rập trước thế lực Hồi Giáo, Israel, Palestine v.v..nhưng trước các cuộc biểu tình rộng lớn và bạo loạn xảy ra nhiều nơi trên đất nước Ai Cập thì Hoa Kỳ cần ổn định an ninh trật tự nên đã ủng hộ các đòi hỏi của phe biểu tình đòi ông Mubarak từ chức và kêu gọi ông Mubarak nên bàn giao một cách êm thấm!!!

-Trung Cộng run sợ và dè dặt trước các vụ biểu tình tại Tunisie,Ai Cập : Toàn bộ hệ thống truyền thông, truyền hình nhà nước không được phát đi bất cứ thông tin nào về vấn đề mà cả thế giới đang theo dõi này nếu chưa được Tân Hoa Xã, cơ quan báo chí được xem là nhiều thông tin nhất của Trung Quốc đã kiểm duyệt và thông qua. Tất cả mạng lưới Internet toàn Hoa Lục đều không thể truy cập khi đánh hai từ Ai Cập hay Tunisia. Người lướt mạng sẽ nhận được giòng chữ: “Theo pháp luật liên quan cùng với những quy định và chính sách hiện hành, kết quả tìm kiếm không thể hiển thị những gì bạn yêu cầu”. Hình ảnh Thiên An Môn vẫn ám ảnh chính quyền Trung Quốc khi liên tưởng tới những cuộc biều tình của người dân nếu xảy ra trong hoàn cảnh hiện nay. 

-Cộng sản Việt Nam: Báo chí lề phải như mọi lần hoàn toàn không bình luận gì về hai biến cố này, chỉ đưa tin tình hình một cách tổng quát và tránh tuyệt đối loan báo những nguyên nhân dẫn tới cuộc cách mạng Hoa nhài và biến cố Cairo.

C-Kết quả cuộc Cách Mạng Hoa Sen tại Ai Cập:

Tổng hợp từ các báo đài quốc tế:

-Xáo trộn chính trị ngày một trở nên căng thẳng hơn ở Ai Cập, sau những cuộc biểu tình rầm rộ được dân chúng thực hiện tại tất cả những thành phố lớn của quốc gia này, đòi hỏi Tổng Thống Hosni Mubaark phải từ chức.

-Ngày 2 tháng 2 năm 2011 Vài nghìn người ủng hộ Tổng thống Hosni Mubarak, trong đó một số người đi xe ngựa và lạc đà, hôm nay đã tấn công những người biểu tình chống chính phủ, khi bạo động tại Ai Cập chuyển sang một ngã rẽ mới, nguy hiểm.

-Suốt trong cuộc biểu tình gần 3 tuần lễ, phía quân đội Ai Cập giữ thế trung lập, thay vì đàn áp những người đối lập xuống đường đòi dân chủ. Lời cam kết của Tướng Tổng tham mưu trưởng Sami Al-Anan rằng “quân đội không đàn áp những công dân xuống đường bày tỏ nguyện vọng của mình” là một sự bảo đảm an toàn, đóng vai trò quan trọng cho sự lớn mạnh của cuộc biểu tình.

-Ngày 11 th áng 2.2011  Tình hình của Ai Cập thay đổi trong không đầy 24 tiếng đồng hồ, kể từ khi Tổng Thống Hosni Mubarak đọc bài diễn văn hồi khuya hôm qua, nói rằng sẽ không từ chức nhưng trao quyền lãnh đạo cho phó Tổng Thống Omar Suleiman.

– Chiều tối thứ Sáu ngày 11-2-2011, Phó Tổng thống Omar Suleiman loan báo sự kiện này trong một diễn từ ngắn trên đài truyền hình nhà nước.

-18 ngày với các cuộc biểu tình đôi khi mạnh bạo đã buộc người từng cai trị nước này cả gần 30 năm phải bước xuống. Ngày thứ Sáu đã là ngày mà những người biểu tình phản kháng mong chờ. Tin từ chức đã được Phó Tổng thống Omar Suleiman tuyên bố trên đài truyền hình nhà nước.

-Hàng chục ngàn người biểu tình ở Quảng Trương Tahir Thủ đô Cairo đã reo hò cuồng nhiệt trước thông tin Tổng thống Hosni Mubarack đã từ chức, rời bỏ quyền lực sau ba thập niên cai trị độc đoán trên đất nứơc Ai Cập

            – Ngay sau đó một làn sóng người đã đua nhau tràn ra đường, tiến về Dinh Tổng Thống và đóng chốt trước trụ sở Đài Truyền Hình Quốc Gia, tiếp tục làm áp lực buộc ông Mubarak phải từ chức. Cuối cùng, nhà lãnh đạo 82 tuổi này đã cùng với gia đình lên máy bay rời Cairo. Tin tức nói là cựu tổng thống Ai Cập hiện đang có mặt ở khu nghỉ mát Sharm el-Sheikh thuộc Hồng Hải.

-Hàng triệu người dân Ai Cập vẫn đứng chật mọi ngã đường ở thủ đô Cairo và những thành phố lớn, hô  to những khẩu hiệu mang nội dung chào mừng một quốc gia vừa hồi sinh sau 30 năm bị cai trị bởi chế độ độc tài Hosni Mubarak. Tổng kết có 300 người chết và trên 1000 bị thuơng.

            -Tại Washington, Tổng Thống Barack Obama nói rằng dân chúng Ai Cập đã cất tiếng nói bày tỏ quyết định của họ, và việc làm này đã tạo khí thế cho người dân toàn cầu. Nhiều vị dân cử Mỹ cũng đã lên tiếng cho rằng quyết định từ chức của ông Mubarak là quyết định sáng suốt.

-Thụy Sĩ phong tỏa tài sản của ông Hosni Mubarak, vừa mới từ chức Tổng thống Ai Cập sau 30 năm cầm quyền. Các chuyên viên nước ngoài ước lượng tài sản của gia đình ông Mubarak có thể từ 40 tỉ đến 70 tỉ đô la.

D-So sánh thủ đoạn cai trị giửa độc tài Ai Cập và độc tài Việt Nam: Qua những sự kiện vừa kể, đối chiếu với hiện tình đất nước Việt Nam gần đây, có những sự trùng hợp và khác biệt như sau:

“Dù là dưới chế độ độc tài, người dân ở Ai Cập có thể biểu tình đông người – một điều chưa hề có dưới chế độ CSVN. Nhờ điều kiện thuận lợi này, cuộc đấu tranh của nhân dân Ai Cập dễ được thành hình, quy tụ được số đông hàng trăm ngàn người và tạo được sức mạnh có áp lực to lớn với chế độ. Ở Tunisia mấy tuần lễ trước đây cũng vậy.

Đây là một yếu tố lớn đóng vai trò quan trọng trong những cuộc đấu tranh với nền tảng là phong trào quần chúng. Tương tự như Ai Cập, các nước Phi Luật Tân, Nam Dương, Thái Lan, Đài Loan, Mã Lai Á… dẹp được chế độ độc tài quân phiệt hay đảng phiệt cũng đều nhờ vào yếu tố chính yếu là có thể quy tụ được đông đảo người dân xuống đường.

Học hỏi được những kinh nghiệm này, đảng CSVN đã trấn áp thô bạo những cuộc xuống đường, tụ tập đông người dù là dưới danh nghĩa đòi dân chủ tự do hay công bằng xã hội. Do đó, cho đến khi điều kiện thực tế trở nên thuận lợi hơn để những cuộc biểu tình ôn hòa có thể tổ chức được, chủ trương đấu tranh ôn hòa thuần túy bằng những đòi hỏi suông sẽ khó có khả năng tạo đủ áp lực để buộc đảng CSVN phải nhượng bộ và trả lại quyền lãnh đạo cho toàn dân.”

Ngưng trích .

http://vietcongonline.files.wordpress.com/2011/02/4a.jpg?w=700

http://vietcongonline.files.wordpress.com/2011/02/58.jpg?w=700

Hình ảnh thủ đô Ai Cập với trên 1 triệu người xuống đường(khác với VN chỉ có vài trăm!!)

E-Bình Luận và Nhận Định

-Trước những vấn nạn lớn nầy, kèm theo chế độ kiểm duyệt gắt gao báo chí trong nước tại Việt Nam, ngăn chận tuyệt đối Facebook, Twitter, Paltalk, Multiply,nghiêm cấm hội họp trên 5 người, kiểm soát  điên thoại di động (cell phone), kiểm soát các dịch vụ Internet thì sự tập trung đông người là một điều vô cùng khó khăn.

-Nhưng nồi súp de (Chaudière) càng đậy kín, sự phẩn uất của người dân không được giải toả bằng ôn hoà thì biểu tình “Bạo Động tự phát” là điều có xác xuất lớn sẽ xảy ra tại Việt Nam. Lúc đó không có một thế lực nào của quốc tế có thể ngăn cản được bạo động bùng phát tại quê nhà.

F-Điều còn lại mà mọi người dân Việt Nam trong và ngoài nước thảy đều quan tâm hiện nay là :

1-“Quân Đội Nhân Dân” từ trước đến giờ là công cụ để bảo vệ  chế độ thay vì bảo vệ dân, biết bao hành động chiếm đất, lấn biển, bắn giêt dân của giặc Tàu mà có thấy “Quân Đội Nhân Dân” phản ứng gì đâu!!! Ngay cả Bộ Chỉ Huy Quân Sự thành phố Sài Gòn cũng đã biến thành Bộ Tư Lệnh Quân Sự nhằm ứng phó với “cac thế lực thù địch” cho chúng ta thấy sự chuẩn bị chu đáo cở nào của Việt Gian Cộng Sản trước cao trào đòi hỏi Tự Do Dân Chủ trên toàn thế giới.

2-Đó là theo chỉ thị, mệnh lệnh của đảng CSVN đối với QĐND, nhưng chúng ta cũng đừng quên thập niên 1990, Quân Đội Liên Xô cũng đã học thuộc điều lệnh đảng CS Liên Xô là công cụ đắc lực bảo vệ đảng, nhưng năm 1991 khi Tổng Thống Gorbachev tuyên bố giải tán đảng CSLX và toàn dân Liên Xô đồng loạt xuống đường thì không hề có đơn vị nào đứng ra bảo vệ đảng. Về sau có một số đơn vị nhỏ định làm cuộc đảo chánh dựng lại đảng CSLX, nhưng Boris Elxin đã đứng ra giải toả Quốc Hội và dẹp tan cuộc bạo loạn nhanh chóng không có đổ máu, chứng tỏ một khi quân đội nhận thức được nghĩa vụ thiêng liêng là “Bảo Vệ Đất Nước” chứ không phải để “bảo vệ 1 đảng phái nào cả” thì Quân Đội đứng về phía người dân ngay.

3- Không phải chỉ có Liên Xô mà ngay cả 11 nước Cộng Hoà Đông Âu thuộc phe Cộng sản năm 1989 -1991 Quân Đội cũng đã đứng về phía nhân dân, không hề  bắn vào dân biệu tình.(Có lúc tại Đông Đức và Tiệp Khắc những cuộc biểu tình có trên nửa triệu người tham gia) Chế độ CS tại Đông Đức sụp đổ, kéo theo 11 nước Cộng Hoà Đông Âu và cả khối Cộng Sản Li ên Xô sụp đổ ngoạn mục (31.12.1991) mà không có một thế lực ngoại bang nào can dự và hổ trợ tài chánh cũng như khí giới!!!

“Các cuộc cách mạng năm 1989 (còn được gọi là Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, sự sụp đổ của cộng sản, (Fall of Communism, the Collapse of Communism), các cuộc cách mạng của Đông Âu ) là những cuộc cách mạng lật đổ các nhà nước thân cộng sản Liên Xô của các nước Đông Âu.Những sự kiện bắt đầu tại Ba Lan, và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc và Romania. Romania là nước duy nhất thuộc Đông Âu lật đổ chế độ cộng sản bằng bạo lực.”  

4-Học đưọc những bài học đắt giá tại Đông Âu và nước đàn anh Liên Xô bị tan rả, đồng thời CSVN cũng học được sự”thành công sắt máu” từ Thiên An Môn mà ở đó Trung Cộng đã sử dụng Hồng Quân đàn áp thẳng tay bằng súng đạn, xe tăng nghiền nát phe biểu tình. Liệu CSVN có sử dụng quân đội để đàn áp như Trung Cộng ? Không ai có dự đoán chính xác về điều nầy có thể xảy ra hay không? Nhưng nếu CSVN gây nợ máu, thì phản ứng tự vệ của người dân là chính đáng, thì không có một thế  lực nào có thể ngăn chận bạo động đồng loạt xảy ra trên toàn quốc. Liệu đến lúc đó người CSVN có bảo đảm chu toàn tài sản cũng như tính mạng của gia đình họ trước làn sóng phẩn nộ của 86 triệu đồng bào VN?

Đó là câu hỏi lớn đang chờ lịch sử trả lời trong một tương lai gần, vì sự chịu đựng của dân Việt Nam suốt 66 năm qua (1945-2011) được mô tả là không thể nào kéo dài thêm vì hành động phản bội Tổ Quốc và tội ác bán nước, buôn dân của đảng CSVN đã bị toàn dân Việt lên án ngày càng mạnh mẽ.  

 Long Điền 2.12.2011

Chú thích: 

 http://www.voanews.com/vietnamese/news/arap-summit-2nd-upd-1-19-11-114245359.html Các nước Ả Rập cảnh báo xáo trộn tại Tunisia có thể lan rộng

http://www.voanews.com/vietnamese/news/egypt-sudan-protest-01-30-2011-114894004.html

Noi gương Ai Cập, sinh viên Sudan biểu tình chống chính phủ

 http://www.voanews.com/vietnamese/news/africa/tunisia-rights-01-16-11-113850529.html Từ nhiều năm nay những người tranh đấu cho nhân quyền tại Tunisia vẫn bị chính phủ hà khắc của Tổng thống Zine el Abidine Ben Ali cầm tù và sách nhiễu. Giờ đây thì họ lại đứng trước những thử thách mới khi mà Tunisia phải đối mặt với một tương lai bất định.

 http://loivedatme.wordpress.com/2011/01/31/th%E1%BB%9Di-k%E1%BB%B3-s%E1%BB%A5p-d%E1%BB%95-hang-lo%E1%BA%A1t-cac-ta-quy%E1%BB%81n-d%E1%BB%99c-tai-tr%C6%B0%E1%BB%9Bc-va-sau-ng%C6%B0%E1%BB%A1ng-c%E1%BB%ADa-th%E1%BA%BF-k%E1%BB%B7-21/ Thời kỳ sụp đổ hàng loạt các tà quyền độc tài trước và sau ngưỡng cửa thế kỷ 21

 http://nguyenhoaitrang.blogspot.com/2011/01/36-nam-tap-oan-viet-gian-ang-phi-csvn_23.html  Ngay Tham Mưu Trưởng Lục quân, tướng Rachid Ammar cũng chống lại lịnh của TT Ban Ali bảo cho binh sĩ bắn vào đoàn người biểu tình, bằng cách từ chức và khuyên Ben Ali đã hết thời nên ra đi.

 http://www.thesaigontimes.vn/Home/thegioi/ghinhan/47804/Cac-nuoc-phan-ung-truoc-viec-Tong-thong-Mubarak-tu-chuc.html Tổng thư ký Liên đoàn Ảrập Amr Moussa nói Tổng thống Hosni Mubarak từ chức là thời điểm bắt đầu xây dựng sự đồng thuận quốc gia tại Ai Cập.

 …Trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của Palestine, người dân Palestine cũng ăn mừng, họ hát quốc ca của Ai Cập. Trong khi đó, phong trào Hamas kiểm soát Dải Gaza cho biết đây chỉ là khởi đầu của cuộc cách mạng tại Ai Cập.

Các quan chức Israel hy vọng Ai Cập chuyển giao quyền lực không ảnh hưởng đến thỏa thuận hòa bình giữa Israel và Ai Cập.

Tại Lebanon, các phong trào Hezbollah chúc mừng người dân Ai Cập giành được chiến thắng tuyệt vời.

 http://www.voanews.com/vietnamese/news/world/un-egypt-human-rights-02-04-11-115315104.html

Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc kêu gọi mở cuộc điều tra quốc tế để quyết định xem lực lượng an ninh Ai Cập có xúi dục các cuộc bạo động nhằm ngăn chận các cuộc biểu tình tại Cairo và những thành phố khác của Ai Cập trong tuần này hay không.

 http://www.voanews.com/vietnamese/news/us-egypt-2nd-upd-02-11-11-115953369.html

Phó Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nói rằng việc từ chức của Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak là một bước ngoặt trong lịch sử. …Ông nói Hoa Kỳ đã ủng hộ cho một loạt các nguyên tắc căn bản trong cuộc nổi dậy này – trong đó có kêu gọi không sử dụng bạo lực để đối phó với những người biểu tình, tôn trọng những quyền của nhân dân Ai Cập và đáp ứng các khát vọng của nhân dân.

 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/from-tunisia-to-cairo-how-does-china-reaction-ml-02022011124638.html   Thái độ của TQ trước sự kiện chính trị ở Ai Cập Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2011-02-02

 http://www.rfa.org/vietnamese/ReadersOpinions/Looking-at-egypt-thought-to-vietnam-nguyencongbang-02122011112426.html  Nhìn về Ai Cập, nghĩ đến Việt Nam do Nguyễn Công Bằng 2011-02-12

 http://www.viettop10.com/vietnam/?p=2281 Bộ chỉ huy Quân sự TP Hồ Chí Minh vừa được đổi tên thành Bộ Tư lệnh TP Hồ Chí Minh nhằm “tăng cường sức mạnh vũ trang” để đối phó với các “lực lượng thù địch”ngày 2.2.2011

 http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_s%E1%BB%A5p_%C4%91%E1%BB%95_c%E1%BB%A7a_Li%C3%AAn_X%C3%B4_v%C3%A0_%C4%90%C3%B4ng_%C3%82u Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu .Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

 http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_Thi%C3%AAn_An_M%C3%B4n  Sự kiện Thiên An Môn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

http://vietsoh.com/news/2010/01/17/anh-cuoc-tham-sat-tren-quang-truong-thien-an-mon.html  Cuộc thảm sát trên quảng trường Thiên An Môn :

http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB16/index.html Hồ sơ giải mật vụ Th ảm sát Thiên An Môn

Thực chất cuộc chiến Việt Nam 1945-1975.

 Thực chất cuộc chiến Việt Nam 1945-1975.

                                                                                                                                              Long Điền.

Cuộc chiến Việt Nam từ năm 1945 đến 1975  là một cuộc chiến đẩm máu, đầy tang thương,nhiều tranh cải,nhiều tên gọi (tùy theo khuynh hướng chính trị ) và còn để lại nhiều hậu quả cho Việt Nam từ 1975 đến nay và là cuộc chiến được giới truyền thông quốc tế ,các nhà văn ,nhà báo ngoại quốc bàn đến nhiều nhất dù đã chấm dứt sau 1975 ,khi phe Miền Nam thất bại ,phe Miền Bắc thống nhất cả nước (mà chưa thống nhất lòng người ).Dỉ nhiên các ký giả,các nhà nghiên cứu quốc tế muốn gọi sao cho cuộc chiến VN thì họ cứ gọi vì hiểu rỏ thực chất cuộc chiến,tủi buồn hay vinh quang,cay đắng hay cuồng vọng một ảo tưởng cho cuộc chiến thì  chỉ có người Việt chúng ta hiểu về cuộc chiến Việt Nam  rỏ nhất.

 Ngày nay với các tài liệu quốc tế được giải mật,bức màn đen tối về lịch sử VN được vén lên với các hồi ký ,các buổi phỏng vấn những nhân vật lịch sử ,với mạng luới điện toán toàn cầu đang được mở rộng,CSVN dù có sử dụng tường lửa ngăn chận thông tin nhưng cũng vẫn không ngăn chận nổi sự truy cập tin tức của đồng bào quốc nội.

Bài viết với mục đích cho thế hệ Trẻ của VIỆT NAM TƯƠNG LAI biết được  thực chất của cuộc chiến trên quê hương Việt Nam suốt 30 năm tàn khốc (1945-1975) (Thực chất=cái căn bản thực có bên trong,phân biệt với biểu hiện bên ngoài.Thí dụ:nhược nhan ,cố thực=vẻ mặt thì mềm yếu,nhưng bên trong ý chí bền vững .Theo Hán Việt Từ Điển cuả Nguyễn Tôn Nhan ,trang 673 )  ,cuộc chiến đã đẩy lùi bước tiến của Dân Tộc Việt Nam kiêu hùng nay phải được coi là chậm tiến  so với các nước lân bang trong vùng Đông Nam Á.

Cuộc chiến 1945-1975 được xem là cuộc nội chiến giửa người Việt Quốc Gia và người Việt Cộng Sản.Còn được gọi tắt là cuộc chiến Quốc -Cộng(hay là chiến tranh ý thức hệ).Từ năm 1945-1954 là thời kỳ Việt Minh Cộng sản khủng bố phe Quốc Gia gồm các đảng phái ,tôn giáo chống thực dân nhưng không theo chủ thuyết CS,thời kỳ 1954-1975 là thời kỳ xâm lược theo chỉ thị của Cộng Sản Quốc Tế,Miền Nam VN tự vệ chống lại cuộc xâm lược của CS Bắc Việt. Trong đó ngoài những cuộc giao tranh trên chiến trường ,Cộng Sản còn tiếp tục sát hại thường dân vô tội với mục đích khủng bố và gây bạo loạn để tiến hành xâm chiếm toàn thể Việt Nam.

Bài viềt nầy nhằm chứng minh cho thế hệ trẻ Việt Nam  hiểu được rỏ dả tâm cuả CSVN đã gây tác hại to lớn thế nào cho nhiều thế hệ khi chúng mang chủ nghiả ngoại lai Mác Lê (Ý thức hệ CS) áp dụng vào đất nước ta ,gây cảnh đấu tranh giai cấp,sát hại hàng loạt những người kháng chiến (không theo chủ nghiã CS), đưa ra một đường lối giáo dục gây căm thù lẩn nhau trong các tầng lớp xả hội trong nước tạo cảnh “Nồi Da Xáo Thịt”  ,nội chiến dai dẳng,mang màu sắc do khác biệt Ý thức hệ.Vì những yếu tố vừa kể trên,chúng ta sẽ lý giải được tại sao dân Việt Nam không thể đồng thuận để tái thiết quê hương sau 1975 và người Việt Quốc Gia trong và ngoài nước vẫn còn tiếp tục đòi giải thể chế độ độc tài,vô nhân suốt 33 năm sau “Thống Nhất”.

  Cuộc chiến VN 1945-1975 được phe Cộng Sản gọi dưới cái tên mỷ miều :Cuộc chiến Giải Phóng Dân Tộc,Cuộc chiến Giành Độc Lập,Cuộc chiến Ý Thức Hệ,nhưng  thực tế đó là một cuộc chiến Huynh Đệ Tương Tàn,một cuộc Nội Chiến tàn bạo nhất lịch sử Việt Nam do Hồ Chí Minh và đảng CSVN thi hành theo sách lược của Cộng Sản Quốc Tế. Cuộc chiến đã khiến cho đất nước ta vốn đứng hàng đầu trong vùng Đông Nam Á trở thành một nước lạc hậu đi sau cả Campuchia và Lào; chứ không cần  đem  so sánh với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á!

 Muốn tìm hiểu Thực Chất cuộc chiến VN1945-1975 thì phải xét qua tổng thể,bao gồm “Khác biệt ý thức hệ”, “Thành phần tham gia” ,”Biên  giới cuộc chiến”, “Quốc gia tham dự” v.v…không thể chỉ xét riêng một yếu tố nào rồi kết luận theo kiểu “Năm người mù xem voi”mỗi người nói một cách tùy theo xét cuộc chiến theo yếu tố nào:

-Bởi vì nếu vội vã kết luận đây là cuộc chiến “Ý Thức Hệ” thì đúng mà chưa đủ.Vì chỉ có một số những lý thuyết gia am tường ,còn đại đa số dân Việt Nam thì mấy ai hiểu rỏ ý thức hệ là gì.Ngay cả năm 1946 ,khi đã cướp được chính quyền qua  cuộc chiến được gọi là “ Cách mạng Mùa Thu “ thì CS cũng đã vội vàng che dấu chủ thuyết CS (tuyên bố dẹp bỏ đảng Cộng sản ) vì dân VN không ưa thích cái chủ thuyết ngoại lai nầy .

-Nếu kết luận đây là cuộc chiến “Uỷ Nhiệm “đúng mà chưa đủ,vì QLVNCH chiếu đấu bảo vệ biên cương ,như hình ảnh một người chủ nhà đánh nhau với bọn  cướp, thì đâu cần ai Uỷ Nhiệm họ vẫn phải chiến đấu để bảo vệ tài sản cuả gia đình mình.

-Nều kết luận đây là cuộc chiến “Huynh đệ tương tàn”thì chỉ đúng một phần vì thực tế có nhiều quốc gia tham chiến và chết trên dất nước VN bao gồm :Trung Cộng,Bắc Hàn ,Cuba (theo tài liệu mới công bố),Pháp,Hoa Kỳ , Úc, Đại Hàn,Tân Tây Lan…

-Trong thời gian chống Pháp dành Độc Lập (1945-1954)có số thiệt hại đôi bên hàng chục ngàn nhân mạng;nhưng so với  những cuộc thanh toán lẩn nhau gửa các đảng phái Quốc Gia như VNQuốc Dân Đảng,Dân Xả Đảng Hoà Hảo,Cao Đài v.v..với Việt Minh rất ác liệtvới thiệt hại nhân mạng lên đến hàng triệu người VN, thì rỏ ràng cuộc chiến dành Độc Lập bị Đảng Cộng sản VN đặt ra  đàng sau cuộc thanh toán nội bộ ,thanh toán các đảng đối lập ,sát hại các tôn giáo v.v…và hoàn toàn các nạn nhân đôi bên đều là người Việt Nam ,nếu không gọi nội chiến thì gọi là gì? (xem biểu đồ tổn thất nhân mạng đôi bên)

Sau đây là biểu đồ tổn thất đôi bên trong các trận chiến giửa Pháp và Việt Minh  [i]    từ 1945-1954

PhápViệt Minh
Lực lượng
Quân Pháp: 190,000
Các đồng minh ở thuộc địa Đông Dương: 55,000
Quốc gia Việt Nam: 150,000[1]
125,000 lính chính quy
75,000 ở các quân khu
250,000 dân quân[2]
Thương vong
94,581 chết
78,127 bị thương
40,000 bị bắt
300.000 chết
500.000 bị thương
100.000 bị bắt

v à đối chiếu  biểu đồ các vụ Việt Minh sát hại c ác đảng phái không Cộng sản v à các tôn giáo trong thời điểm 1945-1954 :

-Đạo Cao Đài bị Việt Minh sát hại  :41.194 người gồm chức sắc Cao Đài và tín đồ bị VM ám sát và tàn sát tập thể trong 775 hố chôn tập thể[ii] .Chưa kể   55.716 chức sắc và tín đồ bị  CSVN sát hại từ 1955-1975.Tổng cộng :96.910 người.

-Đạo Hoà  Hảo bị Việt Minh sát hại trên 10.000 chức sắc và tín đồ từ 1945-1954 .(không có thống kê chính xác)và từ sau 1954-1975 có hàng ngàn chức sắc và tín đồ Hoà Hảo bị CSVN sát hại.

-Qua tài liệu thống kê cho ta thấy số nạn nhân các đảng phái không CS   và các tôn giáo bị sát hại lên đến 700.000 người ,chưa kể tổn thất cuả thường dân trên 1.000.000 người ,gấp hang chục lần con số lính Pháp tử trận . Như vậy xét ở phương diện bên tham chiến thì yếu tố Pháp Việt,yếu hơn Nội Chiến giửa người Việt với nhau.

-Trong thời gian từ 1954-1965 hoàn toàn không có quân đội ngoại quốc trên chiến trường,nhưng nhiều trận đánh cấp trung đoàn,tiểu đoàn xãy ra tại Miền Nam ,giửa phiá CS và VNCH (chưa có bộ đội Bắc Việt) , đồng thời kể từ ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam 1960 ,trong vòng 1 tuần lể CS đã sát hại hang chục ngàn viên chức xả ấp ,thì yếu tố “Nội Chiến “ nổi bật.

-Ngày thành lập “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” 20-12-1960 ,một tổ chức do CS Bắc Việt dựng lên,trong vòng 1 tuần lể đầu tiên  CSVN đã ám sát ,thủ tiêu hàng ngàn thường dân vô tội,viên chức chính quyền dân cử VNCH trong khi Hiệp Định Genève 1954  phân chia hai miền Nam Bắc như  hai quốc gia riêng biệt theo 2 thể chế chính trị khác nhau,có chủ quyền ,có chính phủ,biên giới minh định qua vỹ tuyến 17 đó rỏ ràng là CS gây nội chiến Nam Bắc.Miền Nam chiến đấu là để tự vệ,MTGPMN là công cụ cuả CS Bắc Việt, là kẻ xâm lăng.

-Sau Hiệp Định Paris 1973 hoàn toàn quân đội Đồng Minh rút hết khỏi Miền Nam mà  CSVN vẫn còn tấn công VNCH ác liệt hơn trước hoà đàm  ,rỏ ràng CSVN cố tình tạo cuộc  nội chiến  với ý đồ  “Xâm Lược”Miền Nam mà thôi .

-Còn nói đó là cuộc nội chiến thì   phe Cộng Sản dứt khoát không chịu nhận , vì đó là cái “Tội Lổi Tày Trời “mà họ cố dấu.Nhạc sĩ phản chiến Trịnh Công Sơn vì không hiểu rỏ Cộng sản nên gọi cuộc chiến 1954-1975 là Nội Chiến mà suýt bị Cộng Sản thủ tiêu !Cộng sản sợ danh từ nầy lắm,vì đó chính là Tội Ác đích thực do chúng gây ra.Một thí dụ cụ thể :kẻ xa lạ thù oán nhau đốt nhà thì mình căm thù nhưng mau quên,nhưng nếu đó là anh em ruột nghe lời người ta, lại đốt nhà anh em  mình thì sẽ thành vừa thù vừa hận .

-Phiá Quốc Gia thì đa số xem  đó là cuộc chiến Tự Vệ cuả Miền Nam chống lại Xâm Lược phương Bắc và không đồng ý gọi đó là cuộc Nội Chiến vì cho là dể mắc mưu ,luận điệu tuyên truyền của CSVN khi chúng lập ra tổ chức bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng. Đánh lừa giới truyền thông ngoại quốc là chỉ có người dân Miền Nam nổi lên chống chính quyền Ngô Đình Diệm ,Nguyễn văn Thiệu thôi.Thực tế là có đến 90% chiến binh tử trận là từ Miền Bắc xâm nhập vàoNam qua hàng chục sư đoàn chính quy Bắc Việt . Thực tế thì  đại đa số dân Miền Nam hiểu rỏ là cuộc chiến xảy ra do Miền Bắc chủ mưu,ngày nào không có bộ đội Bắc Việt xâm nhập thì ngày đó Miền Nam  sẽ ổn định ngay.

Nói về thực chất cuộc chiến,nhiều nghi vấn lịch sử hiện nay vẫn chưa giải đáp được đầy đủ.Trong nguyên tắc viết sử ,người ta tránh dùng chử “nếu” vì có quá nhiều thiên kiến.Nhưng muốn tìm hiểu thực chất cuộc chiến VN ,ta chỉ cần trả lời các chử “nếu” sau đây:

1 Nếu sau 1954 CSQT không bành trướng chủ nghiả CS sang các nước Đông Dương và đồng thời khối Tây Phương bỏ mặc Đông Dương cho CS chiếm như các nước Đông Âu sau 1945 thì có cuộc chiến Đông Dương không ?(dỉ nhiên là không có chiến tranh xảy ra)

 2 Nếu CSVN không cài người và chôn dấu vũ khí lại ở Miền Nam trước HĐ Genève 1954 thì Miền Nam có xảy ra chiến tranh không?(nếu có thì chỉ có tranh cháp nội bộ ,không có xảy ra chiến tranh quy mô)

3 Nếu cho dù Hoa kỳ và Tây phương có viện trợ nhưng Miền Nam không chống trả CS (hoặc tự động đầu hàng CS)thì  có chiến tranh không ?.( điển hình là các nước Đông Âu đã bị khối Tây Phương bỏ mặc cho CS xâm lược,nên không có chiến tranh,tuy nhiên họ phải sống đau khổ suốt  45 năm mới giải thoát được ách CS (1945-1990)

4  Nếu Liên Sô và Trung Cộng có viện trợ,có xuí biểu,có áp lực nhưng Hồ Chí Minh và đảng CSVN không chấp nhận tấn công Miền Nam thì  có chiến tranh không ?Nếu Hồ Chí Minh dám trả lời với Mao Trạch Đông : “đồng chí hảy giải phóng Đài Loan trước khi xúi tôi đánh Miền Nam VN” thì có chiến tranh 30 năm không ?

5  Nếu chỉ có Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không có bộ đội chính quy Miền Bắc vào thì có chiến tranh lâu dài không? (Với chính sách chiêu hồi và bình định nông thôn của VNCH sẽ ổn định Miên Nam nhanh chóng,không có chiến tranh xảy ra.Llời thú nhận của cán bộ CS cho biết 95% quân Giải Phóng đã bị tiêu diệt từ năm 1961).

6 Nếu nói Miền Nam bị Mỹ đô hộ theo kiểu thực dân mới ,vậy thử hỏi Tây Đức,Nam Hàn có bị Mỹ đô hộ chưa?(xin thưa Tây Đức và Nam Hàn chỉ là đồng minh với Mỹ thôi,họ là đồng minh ngang hàng với Mỹ vì an ninh ổn định, không bị chiến tranh chi phối,ngày nay kinh tế của 2 nước nầy thuộc hàng cao nhất thế giới và không lệ thuộc bất cứ ai.Tây Đức chủ động hiệp thương với Đông Đức,bỏ ra hàng chục tỹ dollar tài trợ cho Đông Đức trước khi 2 nước thống nhất   và Nam Hàn trong tương lai gần sẽ thống nhất , đùm bọc Bắc Hàn đang rên siết vì đói nghèo.)

7-Có người đặt giả thuyết :nếu năm 1948 Quốc Trưởng Bảo Đại không thành lập Quân Đội Quốc Gia,tiền thân của QLVNCH sau nầy  thì trên đất nước VN có chiến tranh không? Xin thưa:sẽ không có chiến tranh bom đạn. Nhưng số người chết vì CS thanh trừng có thể sẽ nhiều hơn khi có chiến tranh đối đầu. Điển hình đất nước Trung Hoa sau cuộc chiến Quốc Cộng 1949,Trung cộng làm chủ lục địa Trung Hoa thì cuộc “Đại Thanh Trừng”lên đến hàng chục triệu người.Liên Xô cũng vậy ,sau cuộc nội chiến Nga 1918-1922,Stalin lên cầm quyền (sau khi Lénin chết năm 1924) đã làm những cuộc “Đại thanh trừng”” Đại khủng bố”sát hại hàng chục triệu dân Nga,Việt Nam sau 1945,Việt Minh cầm quyền,có sự tham gia của các đảng phái trong Quốc Hội ,nhưng Hồ Chí Minh và đồng bọn đã tàn sát hàng trăm ngàn đồng bào  (trong vòng 2 năm 1945-1946).bởi vì lúc đó không có lực lượng đủ mạnh để đối đầu với CS!

-Bài viết cũng nhằm phản bác các luận điểm ,nhản quan của những cây viết Tây Phương vốn đã không hiểu,hoặc hiểu lệch lạc về cuộc chiến Việt Nam ,theo họ cuộc chiến vừa qua chĩ là giửa nguời Mỹ và Cộng sản Việt Nam ,thực tế cuộc chiến vừa qua đa phần là do chính những người Việt Nam với nhau mà thôi,bởi vì bằng chứng lịch sử cho thấy  từ 1954 đến 1964 trước khi quân đội đồng minh vào tiếp cứu  Miền Nam trước làn sóng xâm lăng cuả CS Đỏ thì quân và dân Miền Nam đã cùng nhau chống chọi cuộc xâm lược của CS Bắc Việt và  sau khi quân đội đồng minh hoàn toàn rút lui khỏi Miền Nam (Hiệp Định Paris năm 1973) thì quân và dân Miền nam vẫn tiếp tục chống chọi với sự xâm lược của CS Bắc Việt .

-Bài viết cũng nhằm phản bác lập luận cho rằng : công nhận nội chiến là mắc mưu của Cộng sản. Xin thưa :CSVN luôn kêu gọi hoà hợp hoà giải nhưng thực tâm chúng chỉ muốn gây cảnh nội chiến để dể dàng thôn tính quyền lực vào một đảng duy nhất là đảng CSVN.Xin minh định cho rỏ là  chúng ta (người theo đường lối Quốc Gia Dân Tộc )không bao giờ chấp nhận ,không muốn cảnh nội chiến ,người lính VNCH khi cầm súng chống CS Bắc Việt  là để bảo vệ tổ quốc trước kẻ thù ngoan cố theo chủ nghiả  CS Quốc Tế chứ khộng phải để giết hại anh em,nhưng cuộc chiến nầy xảy ra từ 1945 đến 1975  là do Cộng sản gây ra,chúng là kẻ chủ mưu cho cuộc nội chiến độc hại gấp trăm lần nạn ngoại xâm.Bởi vì chống ngoại xâm xong rồi thì toàn dân  sẽ chung phần tái thiết đất nước dể dàng,còn cuộc nội thù thì cứ dai dẳng mấy chục năm (từ 1975 đế nay)làm cho đất nước suy yếu và sẽ còn kéo dài không biét đến bao giờ mới có thống nhất lòng người trước thời buổi nhiểu nhương ,xả hội suy đồi,nguy cơ mất nước vào tay bọn bá quyền Bắc Kinh luôn chờ chực thôn tính nước nhà.

Qua phần trình bày trên ,cho chúng ta kết quả là :muốn xét thực chất cuộc chiến VN 1945-1975 thì phải xét tổng thể các yếu tố tạo thành chiến tranh để kết luận hoặc gọi tên cuộc chiến. Nếu chỉ xét một khía cạnh,một yếu tố thì dể thiếu sót, đúng nhưng chưa đủ.

Sau khi trình bày thực chất cuộc chiến ,chúng ta sẽ giúp cho giới trẻ tại VN và hải ngoại hiểu rỏ bản chất cuộc chiến xấu xa,không cần thiết mà hiện nay đảng CSVN độc tài vẫn hằng ca tụng là cuộc chiến thần thánh giải phóng quê hương! Để cho giới trẻ thấy được sự hào hùng cuả QLVNCH trong suốt 20 năm, hy sinh thân mình để bảo vệ tổ quốc,bảo vệ Tự Do ,Dân Chủ thực sự cho đất nước Việt Nam thân yêu .Giúp cho thanh niên VN hiểu được tại sao ngưới Việt Quốc Gia tại quốc nội và cả ở hải ngoại ,tại sao  sau năm 1975 khi đất nước “Thống Nhất” rồi  vẫn kiên trì tranh đấu cho quyền lợi thiết thực cuả đồng bào  vì yêu quê hương đất nước,vì tương lai giống nòi . Để lý giải cho giới trẻ hiểu được vì sao một số lảnh tụ,trí thức,tướng lãnh có hàng chục tuổi đảng,có địa vị cao ngất trong chế độ CS mà ngày nay họ đã nhận ra bộ mặt thật xấu xa cuả chế độ mà bao năm  họ đã từng phục vụ đắc lực,nhờ vào truyền thông đại chúng mở rộng ,nhờ vào các tài liệu mật được giải mật phô bày công khai nên những công thần CS ngày nay họ đã thấy được bản chất tôi ác cuả cái đảng mà họ từng tham gia ,giết hại đồng bào. Để tiếp tục cầm quyền ,cai trị ngu dốt và hà khắc dân ta,bọn chóp bu trong Bộ Chính Trị đã và đang sử dụng chiêu bài giả trá,tráo trở hai mặt làm cho người dân trong nước và hải ngoại không biết đâu là chính nghiả,gian tà.Không phân biệt trắng đen để chúng tiếp tục lừa dối ,vơ vét , đục khoét tài sản quốc gia và làm đất nước ngày một lụn bại . Đường hướng đấu tranh hiện tại và tương lai cho Việt Nam là : Giải trừ gian tà , đề cao chính nghiả, đoàn kết  toàn dân ,Tự Do,Dân Chủ thật sự để tái thiết Đất Nước Việt Nam trở nên giàu mạnh trong thế giới văn minh hiện tại.

Mục lục bài viết :

  1. Nhận định  cuộc chiến phiá Quốc Gia Dân Tộc.
  2. Nhận định cuộc chiến phía những người Cộng Sản hay thân cộng sản
  3.  Nhận định cuộc chiến phía Quốc Tế .
  4. Sự tác hại của  cuộc Nội Chiến (hay cốt nhục tương tàn ) do Cộng sản Việt Nam chủ mưu .
  5. Đường hướng đấu tranh tương lai cho một nước Việt Nam Dân Chủ và Tự Do thật sự .
  6. Kết luận

Muốn tìm hiểu thực chất cuộc chiến Việt Nam 1945-1975 thì trước hết phải chọn tên gọi cuộc chiến.Vì “danh chính thì ngôn mới thuận”.

Tên gọi cho cuộc chiến 30 năm tại Việt Nam từ 1945-1975 có rất nhiều tên gọi do lập trường của mỗi bên Quốc Gia và Cộng Sản.Tuy nhiên theo tôi, tên gọi cho cuộc chiến nên dành cho các nhà lãnh đạo đã tham dự cuộc chiến Việt Nam ở cả 2 phiá,những tướng lãnh ,những sử gia,chính trị gia của Việt Nam và kể cả những sử gia,nhà báo quốc tế.

Hầu hết các vị lãnh đạo của phiá Quốc Gia vẫn thường gọi là cuộc chiến Quốc Cộng,cuộc chiến huynh đệ tương tàn,cuộc chiến xâm lược cuả Miền Bắc đánh phá Miền Nam.

Lý do chọn những vị lãnh đạo Việt Nam  ,các vị tướng lãnh trực tiếp chỉ huy,các sử gia,bình luận gia,chính trị gia  đại diện cho 2 Miền Nam,Bắc là những lời nói  có giá trị cao nhất ,vì họ chịu trách nhiệm trước lịch sử,trước Dân Tộc VN trong cuộc chiến và sau nầy. Ưu tiên dành cho những người Việt Nam vì một số những người ngoại cuộc không hiểu rỏ thực chất cuộc chiến,nguyên nhân và hậu quả bằng người dân Việt chịu trực tiếp những đau thương ,mất mát,vinh nhục trong cuộc chiến. Trước đây vẫn   còn nhiều tranh cải trong suốt nửa thế kỷ qua và còn kéo dài đến tận hôm nay (2008 )và chưa biết đến bao giờ mới có sự đồng thuận của toàn dân Việt khi nhắc đến  cuộc chiến tang thương nầy.

Lần lược chúng ta sẽ tìm hiểu  Thực Chất cuộc chiến VN từ 1945-1975  qua các lời tuyên bố,lời nhận định cuả chính các nhân vật lịch sử sau đây: (ghi chú :chử in nghiên,trong ngoặc kép là lời cuả nhân vật lịch sử. Chử in đứng là nhận định cuả người viết)


Ghi Chú :Với mục đích để cho độc giả tìm hiểu nguồn cuả bài tham khảo,chúng tôi đưa lên cái link để tra cứu  (Bằng cách vào link ( bấm control+click vào hàng chử màu xanh) để xem chi tiết toàn bài hoặc copy link rồi đưa vào Yahoo search)

[i]http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_%C4%90%C3%B4ng_D%C6%B0%C6%A1ng  Báo cáo tổn thất giửa Pháp và Việt Minh thời gian 9 năm từ 1945-1954.

[ii] Tội ác CSVN đối với các đảng phái QG và các tôn giáo:

 -TỘI ÁC CỦA CSVN TÀN-SÁT TÍN-ÐỒ CAO-ÐÀI: 

– VM sát hại Cao Đài http://www.danchu2006.com/PageHtm/TonGiao/CaoDai.htm  

– VM sát hại Cao Đài          http://thaoha.free.fr/VuTanSatCaoDai.htm  

– VM sát hại Hoà Hảo :http://www.danchu2006.com/PageHtm/TonGiao/HoaHao.htm 

-Việt Minh ám hại Giáo chù PGHH Huỳnh Phú Sổ và các tín đồ PGHH :xem Án tích CSVN Trần Gia Phụng ,NXB Non Nước,Canada,2001 trang 86,87,88.

-Việt Minh sát hại tín đồ Phật Giáo và Thiên Chúa giáo. http://ngothelinh.tripod.com/50_nam_toi_ac_cong_san_VN.html  Hồ sơ 50 năm tội ác CSVN .

– Nhận định về những sai lầm nghiêm trọng của đảng CSVN đối với Dân Tộc và Tôn Giáo :  http://www.lenduong.net/spip.php?article4441 , http://www.lenduong.net/spip.php?article4442 cuả Hoà Thương Thích Quảng Độ.

   – Việt Minh tieu diệt nhóm CS Đệ Tứ và các chiến sỹ có khuynh hướng QG: http://hoahao.org/default.asp?catid=4&nid=7660

ĐĐồng thời với hành động tiêu diệt nhóm Đệ Tứ ở miền Nam, Cộng Sản Việt Minh lúc đó còn tiêu diệt rất n–Vụ Ô Cầu Giấy 16-8-1945 VM sát hại những người CS ly khai như Hồ Tùng Mậu,Lâm Đức Thụ,Ta Thu Thâu , Đào Tuấn Kiệt xem quyển “Án tích CSVN” của sử gia Trần Gia Phụng ,NXB Non Nuóc ,Canada 2001 ,trang60.

-Vụ Ôn Như Hầu 13.7.1946 VM sát hại Việt Nam Quốc Dân Đảng ,xem Án tích CSVN sách đã dẩn trang 80.

-Vụ Cầu Chiêm Sơn tháng 7 năm 1946:VM tấn công 7 chiến khu của VNQĐD xem ATCSVN trang 81.

-Tổng kết các vụ VM sát hại các đảng phái và tôn giáo từ 1945-1954 lên đến vài trăm ngàn người : Án tích CSVN trang 88.

-Theo quyển  “Hồ Sơ Đen CSVN từ 1945 đến nay”dịch từ quyển “Vietnam: Le Dossier Noir Du Communissme” cuả Michel Tauriac NXB Văn Mới ,Cllifornia,USA 2002 trang 98có  700.000 nạn nhân bị giết hại do VM thực hiện.

-Sự sát hại người Việt cuả VMCS còn được gọi là cuộc Diệt Chủng Giai Cấp và là cuộc diệt chủng Tôn Giáo ,”Hồ Sơ Đen CSVN” ,sđd trang 302. Đ

TT Nguyễn Văn Thiệu

3-Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :

Nguyễn Văn Thiệu (1923 – 2001)

Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001)

-Tiểu sử:  Ông Nguyễn Văn Thiệu  sinh ngày 11 Tháng 12, 1924 tại làng Trí Thủy gần tỉnh lỵ Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Ông lập gia đình tại Mỹ Tho với Cô Nguyễn Thị Mai Anh, có ba con  và một con nuôi. Ông thụ huấn Khóa Sĩ Quan Căn Bản Bộ Binh tại trường Coetquidan (Pháp quốc, 1949 và tốt nghiệp tháng Sáu 1950). Ông được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt QGVN tại Đà Lạt tháng 3, 1955. Ông đi Okinawa, Nhật năm 1962 thụ huấn tại trường Chỉ Huy Tham Mưu Thái Bình Dương, sau đó giữ chức Tư Lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh Biên Hòa . Năm 1964 được vinh thăng Thiếu tướng, rồi Trung Tướng năm 1965 và bắt đầu vào chính trường với chức vụ Phó Tổng Thống kiêm Tổng Trường Quốc Phòng trong chính phủ Phan Huy Quát, kiêm luôn chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực.  Năm 1965 ông được tín nhiệm trong chức vụ Chủ Tịch Uỷ Ban Lãnh Đạo QG. Đắc cử Tổng Thống nền Đệ Nhị CH trong hai nhiệm kỳ kể từ tháng 9, 1967.

Tháng Tư, 1975 trước áp lực của Hoa Kỳ và Cộng Sản Hà Nội ông từ  chức Tổng Thống VNCH. Sau khi  rời quê hương ông sống một thời gian tại Luân Đôn, Anh Quốc.  Năm 1985 ông định cư tại HK và sống tại West Newton và sau đó Foxboro thuộc tiểu bang Massachusetts.

Ông tạ thế ngày 29 tháng 9, 2001 tại Bệnh viện Beth Israel Deaconess, Thành phố Boston, MA, hưởng thọ 78 tuổi.

– Trong suốt thời gian giử trách nhiệm lãnh đạo quốc gia, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện được những điều như sau :

* Về quân sự, cố TT Nguyễn Văn Thiệu, trong trách vụ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, ông đã lãnh đạo QLVNCH, gây cho cộng sản những thất bại nặng nề qua 3 đợt tổng công kích năm Tết Mậu Thân (1968), đã có 100 ngàn bộ đội chính quy, du kích, cán bộ cơ sở nằm vùng đã bị loại khỏi vòng chiến. Sau đó, chiến tranh khốc liệt vẫn tiếp diễn, năm 1972, một lần nữa với sự lãnh đạo sáng suốt của ông, QLVNCH đã đẩy lui các cuộc tổng tấn công của Cộng sản Bắc Việt trên các mặt trận Trị Thiên, Komtum và Bình Long. Trong khi mặt trận còn nặc mùi thuốc súng, nóng bỏng, Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không ngại hiểm nguy, đích thân đến chiến trường để ủy lạo và tưởng thưởng các chiến sĩ anh hùng của quân lực.

* Về chính trị, ông đưa ra Lập trường 4 KHÔNG làm chỉ nam cho sách lược chính trị của chính phủ VNCH là KHÔNG THỪA NHẬN CỘNG SẢN, KHÔNG TRUNG LẬP HÓA MIỀN NAM, KHÔNG LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP và KHÔNG NHƯỢNG ÐẤT CHO CỘNG SẢN.[i]

Cố TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu đáng được lịch sử ghi nhận như sau:

– Ông là một vị Tổng Tư Lệnh dũng mãnh, không ngại hiểm nguy, đã đến tận chiến trường khi trận chiến còn nặc mùi khói súng để ủy lạo và tưởng thưởng các chiến sĩ anh hùng. -Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là con người bình dị, đó là bản tính chân thật của ông không hề dàn cảnh,phô trương và ông luôn luôn rất gần với lính, ông đã có mặt trong bất cứ trận địa nào dù nguy hiểm đến đâu ông cũng đều có mặt để an ủi và uỷ lạo tinh thần chiến đấu của chiến sĩ VNCH.

– Ông là một chiến sĩ đấu tranh cho TỰ DO chống Cộng sản độc tài đảng trị.

– Ông còn là một chiến sĩ cho đấu tranh cho DÂN CHỦ đã có công sáng lập nền đệ nhị Cộng hòa cho miền Nam, xây dựng một thể chế DÂN CHỦ PHÁP TRỊ cho nhân dân miền Nam mặc dù đất nước đang bị chiến tranh xâm lăng dày xéo[ii]

 -Ông là người cương quyết bảo vệ lãnh thổ với quyết tâm không để một tất đất nào lọt vào tay ngoại bang, điển hình trong vụ hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1năm 1974 với cương vị tổng tư lệnh QLVNCH  ông đã chỉ thị cho Hải Quân  Vùng I Chiến Thuật dù hoả lực yếu hơn,dù cô thế (không được Đệ Thất Hạm Đội Mỹ hỗ trợ ) tấn  công tàu chiến Trung Cộng đã ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa.Trái ngược lại với hành động đê hèn của Bắc Việt gởi công hàm công nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Cộng! [iii]

– Và trên hết, Ông là một NHÀ ÁI QUỐC CHÂN CHÍNH đã không ngại hy sinh thân thế và sự nghiệp để đấu tranh cho người dân miền Nam có một nền hòa bình công chính trong Tự do và Dân chủ với chủ trương “Bốn Không”. Chính mục tiêu tối hậu nầy mà ông đã sẳn sàng từ bỏ cương vị Tổng Thống  để các cường lực chính trị sấp xếp một giài pháp chính trị cho Việt Nam”.

Nhận định về cựu  tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Chủ Tich Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn viết năm 2001 như sau :

“  Tôi nhận thấy Ông là một Lãnh tụ chánh trị cẩn trọng, cương nghị, và trên hết, Ông là người yêu nước. Ông ngày đêm lo âu về vận mệnh quốc gia, không ngừng toan tính về sự tranh thắng ngoài chiến trường chống kẻ thù, cũng như trên bàn hội nghị hòa đàm vừa chống kẻ thù và cay nghiệt thay, vừa đối phó với ngay cả đồng minh của mình.”

– Những quốc sách quan trọng của TT Nguyễn Văn Thiệu đã đạt những thành công rực rở: 

 1-Luật Người Cày Có Ruộng :Vào năm 1970 TT Đệ Nhị VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Luật “Người Cày Có Ruộng” qui định ruộng đất không trực canh đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thoả đáng theo thời giá. Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát cho tá điền (3 mẫu ở Nam phần và 1 mẫu ở Cao Nguyên và Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa 15 mẫu. Tuy nhiên, Luật “Người Cầy Có Ruộng” không được phép áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân.

     Ở Miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá sạch. Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng để gia tăng năng suất. Sau khi hoàn tất chương trình Người Cày Có Ruộng trong những năm 1970-1973 nước Việt Nam Cộng Hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hoá và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở Miền Nam Việt Nam.Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu, sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác. Số người nông dân giàu có này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do. Sau khi nước Việt Nam Cộng Hoà hoàn tất chương trình Người Cày Có Ruộng thì không còn thành phần đại-địa-chủ ở Miền Nam Việt Nam. Trong ba năm 1970-1973, kết quả của chương trình “Người Cày Có Ruộng” là đã chấm dứt chế độ tá canh ở Miền Nam Việt Nam khi tá điền trở thành điền chủ.[iv]

Qua hai so sánh vừa kể cho ta thấy chính sách Cải Cách Điền Địa VNCH và CCRĐ cuả CSVN khác nhau ở 1 bên là giết người (phú nông,trung nông ,địa chủ) để cướp đất rồi nói là phát cho dân nghèo (thực tế là sau 2 năm CSVN  đưa tất cả ruộng đất vào hợp tác xả nông nghiêp, thì nông dân nghèo cũng chẳng còn sở hữu đất đai gì cả. Còn Miền Nam  theo chính sách của TT Nguyễn Văn Thiệu thì ruộng đất của đại địa chủ được chính phủ thu mua giá cả sòng phẳng rồi bán trả góp 12 năm cho nông dân nghèo.Đại địa chủ chỉ đưọc giử tối đa 15 mẩu nếu trực canh ,sau năm 1973 đã chấm dứt nạn “Tá canh ” làm thuê ruộng của chủ điên vì nông dân đã được cấp hay bán trả góp.

Sau 1975 đến nay thì sao? Hoàn toàn đất đai là thuộc sở hữu nhà nước, người dân chỉ được quyền “Sử Dụng Ruộng Đất” tức là sổ đỏ .Có thể mua bán số đất của tổ tiên để lại, còn các loại đất đai khác bất cứ lúc nào nhà nước cần trung dụng ,quy hoạch là phải bán với gía  do chính quyền địa phương quy định! Một hình thức ăn cướp giửa ban ngày.Vì vậy có hàng ngàn nông dân hiện nay đi khiếu kiện đất ,chuyện xảy ra hàng ngày tại VN mà chính phủ không thể giải quyết nổi,có nông dân khiếu kiện,biểu tình gần 20 năm mà không được giải quyết.[v]

2-Chương Trình Hữu Sản Hoá :Chương trình nối tiếp từ thời TT Ngô Đình Diệm đến thời TT Nguyễn Văn Thiệu nhằm giúp đở ,cải tiến ngành nghề như xích lô đạp,xe thổ mộ,xe ba gác được mua trả góp xe lam,xe taxi ,biến những người thuê xe kiếm sống trở nên chủ nhân thực sự những phương tiện chuyên chở công cộng, vừa tạo đời sống khá hơn cho người lao động nghèo,vừa cải tiến phương tiện giao thông thô sơ ra phương tiện văn minh hơn.

3-Quốc sách Chiêu hồi :Có thể nói trong suốt thời gian 10 năm cầm quyền của TT Nguyễn Văn Thiệu thì quốc sách “Chiêu Hồi” đã đạt sự thành công vĩ đại nhất .Chưa có thống kê của 2 năm 1974.1975 nhưng tính từ 1963-1973 đã có trên 200.000 hồi chánh viên trở về với chính nghiã Quốc Gia. Đây là một việc làm có ý nghĩa nhất trong tình Dân Tộc,nghĩa Đồng Bào vì các bạn thử tưởng tượng 200.000 cán binh cộng sản tương với quân số 20 sư đoàn đang cầm súng bắn đồng bào mình  nay được kêu gọi bằng tấm lòng nhân ái, trở về với chính nghiã quốc gia và sau đó họ được cho về đoàn tụ với gia đình của họ .

Biểu đồ quốc sách Chiêu Hồi đạt được từ năm 1963 đến đầu năm 1971.[vi]

VN4248B.jpg (21987 bytes)
ChieuHoi73stamp.jpg (60735 bytes)
5flagb.jpg (24212 bytes)
surpass2B.jpg (40847 bytes)

Tem kỹ niệm ngày  18 tháng 2 năm 1973 là ngày đạt được người Hồi Chánh thứ  200.000 (Tương đương với quân số 20 sư đoàn )và giấy thông hành cho cán binh cộng sản muốn về hồi chánh.

Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc nầy là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất vì đã được chứng minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những hồi chánh viên không còn bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được đối xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại gia đình Dân Tộc.

SP2330AF.jpg (41163 bytes)
CH003.jpg (41831 bytes)

    Chiêu Hồi là  Đại Đoàn Kết Dân Tộc                Hình ảnh ngày trở về vui vẻ của những cán binh VC tại Tam Kỳ                                                                                                                                           

Khi trở về với chính nghiả Quốc Gia ,các hồi chánh viên được thoải mái đoàn tụ với gia đình, đi du lịch và còn được học nghề theo nhu cầu của họ.

ChieuHoireadbook.jpg (25318 bytes)
ChieuHoiGrads004.jpg (185819 bytes)
CH004.jpg (35473 bytes)

 Học tập đường lói Quốc Gia ngày mới về.              Các HCV Đi chơi tại Thảo Cầm Viên Saigòn .        Một lớp dạy nghề tại Biên Hoà cho HCV.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người theo Mỹ hay chống Mỹ (Hồ sơ giải mật của CIA nói về TT Thiệu)

Vài Ý Nghĩ về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Nguyễn Kỳ Phong http://vanhoamagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=169&Itemid=90

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, vai trò của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (TTT) như một nguyên thủ lãnh đạo quốc gia được đem ra phê phán. Vài ý kiến cho rằng vì TTT quá tin vào người Mỹ nên miền Nam rơi vào tay cộng sản. Về vai trò lãnh đạo, một số ý kiến nói tại TTT độc tài, nắm giữ hết quyền điều binh khiển tướng, chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Độc Lập, nên gây ra nhiều sự bất mãn cho các cấp tướng lãnh trong những năm sau cùng của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Hai phê phán về TTT ở trên có lý do và giá trị để được luận bàn. Dựa vào một số tài liệu của Hoa Kỳ viết về TTT đã được giải mật trong thời gian qua, bài viết ngắn dưới đây ghi lại một số sự kiện về liên hệ cá nhân của TTT với người Mỹ; và, về đường lối quản trị quốc gia của TTT như một nhà lãnh đạo.   picture1.jpg   Liên Hệ Cá Nhân Với Hoa Kỳ :    
Tổng Thống Thiệu có quá tin người Mỹ không? Căn cứ vào những hồ sơ được giải mật, TTT chẳng những không tin người Mỹ, trái lại lúc nào ông cũng nghi ngờ và lo sợ về đường lối của Hoa Kỳ đối với Việt Nam; và đối với ông như người lãnh đạo quốc gia. Từ khi bắt đầu giao thiệp, TTT đã có thái độ e dè, nếu không nói là bất thiện cảm đối với người Mỹ. Trong một báo cáo tóm lược về cá nhân TTT do Nha Tình Báo Quốc Phòng (Defense Intelligence Agency/ DIA) viết vào tháng 7-1968, họ nhận xét ông Thiệu là người chống cộng (anti-communist) nhưng đồng thời cũng “chống Mỹ.” Nguyên văn trong báo cáo là, “… Thieu is anti-United States.” Câu đó cũng có thể hiểu là “không thích Hoa Kỳ” hơn là theo nghĩa thông thường “chống Mỹ.” (xem phóng ảnh tài liệu 3-1) Cũng trong báo cáo đó, DIA cho biết thái độ chống Hoa Kỳ của ông Thiệu đã được ghi nhận từ tháng 2-1964, và chính ông Thiệu cũng tự nhận thái độ của ông đối với người Mỹ. Trong báo cáo tháng 7-1968, sau khi nói về thái độ của Tổng Thống Thiệu trước đó (trước báo cáo tháng 7-1968), người báo cáo viết, hiện tại ông Thiệu chú trọng đến sự phối hợp sát cánh đường lối của Hoa Kỳ và Việt Nam, để Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ miền Nam. So với những báo cáo khác, báo cáo của tháng 7-1968 nói tốt, nhưng chỉ nói một cách tổng quát về TTT. Nhưng qua tất cả những tài liệu phân tích về tâm tính TTT mà người viết này đã đọc qua, người viết có thể nói Hoa Kỳ không hiểu nhiều về ông Thiệu: phần lớn họ chỉ đoán về ông, dựa vào báo cáo của những cộng sự viên hoặc bạn đồng ngũ trong quá khứ. Báo cáo đến từ CIA, DIA, và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, xử dụng nhiều tĩnh từ như khôn vặt, cáo già, mưu mô, cunning, intelligent, shrew, efficient … để tả cá tính TTT.(1) 

Nhưng sau cùng, báo cáo vẫn kết luận họ không đoán được suy nghĩ và hành động của ông Thiệu, hay có thể gây ảnh hưởng với ông như họ đã làm với những thẩm quyền Việt Nam khác. Ngược lại, trong một vài lần mặt đối mặt với nhiều thẩm quyền Hoa Kỳ, TTT bỏ đi cá tính thông thường của ông — cá tính thông thường là sự dè dặt khi được hỏi ý kiến, và nghe nhiều hơn nói — và đặt nhiều câu hỏi khiến cho người đối diện rất lúng túng. Qua những lần như vậy, giới hữu trách Mỹ thấy ông Thiệu biết nhiều chuyện họ làm nhưng ông làm như không biết. Dựa vào những tài liệu đã trích, chúng ta thấy cố TTT không hoàn toàn tin vào người Mỹ trong suốt sự nghiệp chính trị của. Ông chỉ dựa vào người Mỹ để đạt được những mục đích ông muốn. Và một trong những mục đích ông muốn thấy, là sự trường tồn của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). nvtbio.jpg   Nếu TTT có tin vào người Mỹ, thì ông không còn chọn lựa nào hơn là phải tin — và người duy nhất ông phải tin là cố Tổng Thống Richard M. Nixon.
     Theo một sử gia của cơ quan CIA viết trong CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam (2),  Hoa Kỳ chỉ thật sự tìm hiểu và cố gắng bắt liên lạc với TTT từ   tháng 7-1967, sau khi một số tướng lãnh quan trọng trong Hội Đồng Quân Lực đồng ý cho ông Thiệu ra tranh cử tổng thống và ông Nguyễn Cao Kỳ, phó tổng thống, trong liên danh quân đội duy nhất vào cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa.

Những báo cáo của DIA, CIA, và của Đại Sứ Ellsworth Bunker (3) gởi về Hoa Thịnh Đốn cho thấy tin tức tình báo Mỹ có thể biết nhiều về ông Kỳ, hay những thẩm quyền VNCH khác, nhưng họ hoàn toàn không biết gì về ông Thiệu — hay ý định của ông Thiệu trong tương lai xa, gần. Một thí dụ khác về sự hiểu biết của người Mỹ về cá nhân ông Thiệu: Trong buổi thuyết trình cho Tổng Thống John F. Kennedy ngày 28 tháng 8-1963, khi nói về hai phe ủng hộ và chống Tổng Thống Diệm, Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu được ghi nhận là “người Công Giáo, ủng hộ ông Ngô Đình Nhu,” và đang có thái độ ủng hộ chánh phủ của Tổng Thống Diệm (4)
Một báo cáo khác đến từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (dĩ nhiên tin tức đến từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn) đề ngày 30 tháng 10-1963 — hai ngày trước khi đảo chánh — trong đó vẫn ghi thái độ của chỉ huy trưởng Sư Đoàn 5 Bộ Binh (Đại Tá Thiệu) “vẫn chưa xác định được.” Điều này cho thấy sự kín đáo của ông Thiệu về thái độ đối với mọi người chung quanh. Căn cứ vào sử liệu sau ngày đảo chánh 1 tháng 11-1963, chúng ta biết chắc chắn ông Thiệu đã đòi hỏi, hay được hứa hẹn, khi tình nguyện tham gia đảo chánh. Vì nếu ông Thiệu không đòi hỏi được tưởng thưởng xứng đáng thì ông đã không tình nguyện dùng đơn vị của ông tấn công các điểm kháng cự ở dinh tổng thống.(5)    
 
     Dưới mắt một số người Mỹ, TTT là một người dè dặt, cẩn thận và kín đáo. Dưới mắt một số người khác thì TTT có tánh bài ngoại (xenophobia); và sự ngờ vực về người Mỹ đã làm cho ông luôn luôn lo sợ một cách vô lý (paranoia) (những từ xenophobia, paranoia là nguyên văn trong bản báo cáo). Sự nghi ngờ của TTT về đường lối và chủ đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam không phải không có lý do. Từ sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Diệm 1963 cho đến khi ông Thiệu trở thành tổng thống, ông Thiệu chứng kiến nhiều kế hoạch bí mật mà người Mỹ đã xử dụng để khuynh đảo nội tình Việt Nam. Những kế hoạch “kín” của CIA nói riêng, và của đường lối của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói chung, không nhất thiết phù hợp với đường lối của chánh phủ VNCH.

Trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, từ năm 1967 TTT đã chứng kiến áp lực của Hoa Kỳ khi họ quyết định “xé lẻ” và liên lạc riêng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Với lý do là họ muốn xâm nhập nhân sự bên trong cơ cấu MTGPMN, người Mỹ yêu cầu thẩm quyền VNCH thả một số nhân sự quan trọng của MTGPMN mà VNCH đang cầm tù. Thẩm quyền Hoa Kỳ lần lượt làm áp lực với tướng Nguyễn Ngọc Loan, tướng Kỳ, và tướng Thiệu cho đến khi chánh phủ VNCH thỏa mãn một phần đề nghị của họ. (6)

     Sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh bị lưu đày ra khỏi nước vào tháng 2-1965, Hoa Thịnh Đốn và phần lớn các thẩm quyền Mỹ ở Việt Nam đều ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ như một nhà lãnh đạo thay thế tướng Nguyễn Khánh. Nhưng người Mỹ bị ngỡ ngàng và bối rối sau khi Hội Đồng Quân Lực chấp thuận liên danh tổng thống-phó tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ trong năm bầu cử 1967. Biến cố này làm người Mỹ sửng sốt vì khi nhóm ông Kỳ đồng ý để cho ông Thiệu làm tổng thống là chuyện không thể xảy ra — hay ít ra là người Mỹ đã không tiên đoán được điều đó. (Xem phóng ảnh 4-1. Ý kiến của tướng Loan khi ông Kỳ chịu đứng vai phó tổng thống là, ông Kỳ đã điên nên mới làm như vậy).   nvtletter.jpg   Sau khi ông Thiệu trở thành tổng thống, người Mỹ dồn mọi liên lạc, xâm nhập, để tìm hiểu thêm về ông Thiệu. Nhưng tài liệu của CIA tự thú là họ thất bại. Khi không tìm được liên lạc để biết thêm về cá tính và đường lối suy nghĩ của TTT, CIA không còn cách nào khác hơn là phải xử dụng phương tiện bất chánh: nghe lén và thâu thập tin tức bằng phương tiện điện tử. Đúng như vậy, trong tài liệu giải mật mới nhất, CIA thú nhận trên giấy trắng mực đen là họ đã dùng phương tiện nghe lén để tìm hiểu, tiên đoán về ý định của TTT. Từ giữa năm 1968 trở đi, CIA xử dụng phương tiện nghe lén nhiều hơn khi TTT hoàn toàn củng cố thế lực và thay đổi hầu hết phe phái của ông Kỳ trong quân đội. Trước đó, tài liệu CIA cho biết họ thâu thập tin tức về nhân sự và đường lối của VNCH qua một số cộng sự viên và tướng lãnh chung quanh ông Kỳ. Nhưng từ tháng 6-1968 trở đi, sau khi một số sĩ quan thân cận với tướng Kỳ bị tử thương trong vụ bắn lầm ở Chợ Lớn; và khi ông Kỳ bị gởi qua Paris vào đầu năm 1969 để làm quan sát viên chánh phủ trong cuộc hòa đàm, CIA mất đi tất cả những liên lạc họ đang có để thâu thập tin tức về VNCH (7).  Không xâm nhập và gây ảnh hưởng được thẳng với ông Thiệu, CIA quay sang gây ảnh hưởng với hai cộng sự viên tin cẩn nhất của TTT: Trung Tướng Đặng Văn Quang và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. CIA cho biết, đôi khi thẩm quyền Mỹ không thuyết phục được TTT, nhưng khi họ dùng ông Khiêm và tướng Quang “chuyển lời” thuyết phục, thì TTT lại nghe theo. “Dùng liên lạc từ tướng Quang để gây ảnh hưởng với TTT là phương thức hiệu quả nhất,” tài liệu CIA nhận xét như vậy.
    
TTT biết CIA thâu âm và nghe lén bên trong Dinh Độc Lập. Ông cũng biết một số nhân viên chung quanh ông làm liên lạc viên cho CIA (8).  Nhưng ông yên lặng, làm như không quan tâm. Trong thực tế, ông lợi dụng những phương tiện đó để “chuyển lời” lại với thẩm quyền Mỹ ý nghĩ thật của ông — và đôi khi ý nghĩ giả dối để đánh lừa người Mỹ. CIA đi đến kết luận này vì qua nhiều trường hợp, ông Thiệu đã không giữ được sự tức giận và nói thẳng với thẩm quyền Mỹ những gì ông biết về hoạt động sau lưng của họ. Ông đã nói thẳng với CIA là chẳng những họ đã dung túng, chứa chấp Thượng Tọa Thích Trí Quang trong khuôn viên tòa đại sứ, họ còn cung cấp ngân khoản tài chánh, để cho thượng tọa huấn luyện thêm tín đồ đối lập với chánh phủ VNCH (9). 
Và sau hai lần bị áp lực thả tù nhân cao cấp của MTGPMN, ông Thiệu chua chát nói với người Mỹ, “Đất nước này [VNCH] không tiến lên được
, vì một đằng là sự xâm nhập của cộng sản Bắc Việt; đằng kia là sự xâm nhập của CIA vào cơ cấu chánh phủ [VNCH].”
Về sự liên lạc bí mật của Mỹ với MTGPMN, ông Thiệu nói, “không chừng tòa đại sứ đang chứa chấp Việt Cộng mà tôi cũng không biết. Thẩm quyền CIA rất lo ngại về những quan sát “quá đúng” của TTT. CIA lo ngại đến độ Trưởng Vụ Viễn Đông của CIA, William E. Nelson, phải viết một báo cáo cho Giám Đốc CIA, Richard Helms, khuyến cáo nhân viên của cơ quan nên cẩn thận với TTT.  Vì một mai nếu có chuyện bất hòa giữa Hoa Kỳ và VNCH xảy ra — hay giữa TTT và CIA — TTT có thể tiết lộ tất cả chuyện làm của CIA cho công luận biết (10).

     Năm 1968 và 1969 là hai năm mà TTT và CIA/ chánh phủ Mỹ có nhiều va chạm. Chánh phủ Lyndon Johnson rất bực tức khi biết TTT đang ngấm ngầm ủng hộ ứng cử viên Richard Nixon qua trung gian bà Anna Chennault. Ngược lại, cũng từ affair đó, TTT được Đại Sứ Bùi Diễm thông báo là Hoa Kỳ đã nghe lén hầu hết những đối thọai giữa các thẩm quyền VNCH, ở trong cũng như ngoài nước (11).  Tài liệu CIA cũng cho biết trong hơn hai tháng cuối năm 1968 đầu năm 1969, TTT tự cắt đứt liên lạc với thẩm quyền Hoa Kỳ vì những lý do kể trên.


     Năm 1969 liên hệ bất thân thiện giữa CIA và TTT gia tăng khi TTT ra lệnh truy tố Dân Biểu Trần Ngọc Châu ra tòa về tội liên lạc với cộng sản. Ông Trần Ngọc Châu không xa lạ gì với CIA Mỹ trong những năm 1965-67. Ông được sự cảm phục của CIA cho đến khi họ bị TTT trói tay. Khi còn là Tỉnh Trưởng Kiến Hòa, ông Châu là người phác họa ra kế hoạch Hệ Thống Khiếu Nại Xã Ấp (Hamlet Census-Grievance System) để áp dụng song song với Chương Trình Xây Dựng Nông Thôn. Hệ thống khiếu nại xã ấp cho phép người dân vừa thông báo với chánh quyền về những cán bộ Việt Cộng thâu thuế địa phương, đồng thời người dân cũng có thể khai báo cho thẩm quyền về những hành vi lạm dụng, mại quyền của viên chức chánh phủ xã ấp. Kiến Hòa cũng là nơi đầu tiên ông Châu cho phép CIA thành lập các toán tình báo-bán quân sự Thám Sát Tỉnh (Provincial Reconnaissance Unit), để triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch. Sau Kiến Hòa, ông Châu được đưa lên làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Vũng Tàu. Nhưng vì không hợp và không thành công trong chức vụ này, ông Châu xin giải ngũ, rồi ứng cử dân biểu. Trong thời gian làm dân biểu, ông Châu liên lạc với CIA xin ngân quỹ để thành lập một lực lượng chánh trị (mục tiêu chánh trị của ông Châu là sẵn sàng đối thoại với thành phần không cộng sản của MTGPMN). Trong thời gian vận động, ông Châu có những tuyên bố ám chỉ ông được sự ủng hộ của CIA. … Nghe những tuyên bố của ông Châu, với những bất thiện cảm về CIA, TTT quyết định “thấu cáy” ông Trần Ngọc Châu. TTT hỏi thẳng Trưởng Sở CIA Sài Gòn, Ted Shackley, là ông Châu có đang làm việc cho CIA hay không; và nếu chánh phủ bắt ông Châu về tội liên lạc với cộng sản, thì CIA có “vấn đề” gì không. Không thể giữ ông Châu và để mất lòng TTT, Ted Shackley trả lời TTT có toàn quyền đối xử với ông Châu. (12)  letterm.jpg Cũng trong năm 1969, CIA được dịp “trả miếng” lại TTT qua vụ Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ. Cuối năm năm 1968 đầu năm 1969, CIA khám phá một hệ thống tình báo cộng sản đang hoạt động ở Sài Gòn. Từ đó họ phăng ra hai ông Trọng và Nhạ đang liên lạc và cung cấp tin tức cho cộng sản. Trưởng Sở CIA Ted Shackley thông báo cho TTT sẽ bắt giữ trọn ổ. Trong sự bàng hoàng, TTT yêu cầu CIA bắt giữ và giải quyết chuyện đó một cách kín đáo — vì nếu làm lớn chuyện, ông sẽ mắc cỡ với dân chúng là đã “nuôi ông tay áo” ngay tại trong Dinh Tổng Thống. Nhưng CIA không đồng đồng ý. Họ nói phải hành động theo ý họ và bắt trọn ổ, rồi đến đâu hay đến đó. Kết quả như chúng ta đã thấy, hơn 42 người liên hệ trong ổ gián điệp bị kết tội trước Tòa Án Quân Sự.

     Dù với tất cả sự nghi ngờ và lo sợ về thái độ của người Mỹ, TTT vẫn phải nhờ vào sự ủng hộ của người Mỹ để củng cố quyền lực và đạt được những mục tiêu mà ông muốn thấy. Đầu năm 1968, trong cao điểm cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Bắc Việt, uy thế và tín nhiệm của TTT xuống mức thấp nhất. Trong thời gian ông cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ — vừa chống cộng, vừa chống thế lực của ông phó tổng thống. Được dịp đối thoại với TTT, CIA đã tài trợ một ngân khoản khá lớn (khoảng 100 ngàn mỹ kim một tháng, trong thời gian 18 tháng) để ông TTT mua chuộc các đảng phái đối lập, và gây ảnh hưởng chính trị ở Quốc Hội.
    
Từ năm 1970 trở đi, báo cáo về TTT chứa đụng nhiều dự đoán lạc quan với nhiều tĩnh từ tốt đẹp. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, người Mỹ chỉ làm bạn khi họ cần người bạn. Nếu sự thực tế đòi hỏi phải bỏ người “bạn,” phải thay đổi, thì họ phải quyết định theo tinh thần “pragmatism” của người Mỹ. Trong hai tháng cuối cùng năm 1972, TTT, sau khi nói thẳng vào mặt Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, là “Tại sao tôi phải tin ông?” Và, “Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi,” thì Hoa Kỳ đã quyết định kết thúc liên hệ của họ ở Việt Nam (13). 
Ông Thiệu tin vào những lời hứa cá nhân của Tổng Thống Richard Nixon khi ký Hiệp Định Ba Lê, không phải vì ông tin vị tổng thống Hoa Kỳ: Ông tin vì phải tin; vì không còn chọn lựa nào khác. Ông bị hăm dọa để tin vào người Mỹ.(14) 
Đi kèm với những lá thư vừa khẩn khoản vừa hứa hẹn của Tổng Thống Nixon, là những áp lực rất khéo léo của Hoa Kỳ nhắm vào những “liên lạc” chung quanh TTT. Những nhân sự thân cận của TTT “được” cho đọc những báo cáo, tường trình, rất bi quan của Hoa Kỳ về tình hình quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ đối với VNCH trong tương lai gần. Rồi từ những liên lạc chung quanh TTT, Hoa Kỳ gia tăng áp lực hăm dọa. Với lối nói chuyện “cạn tàu ráo máng” của Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, dĩ nhiên TTT phải lo sợ và bối rối: lo sợ vì Hoa Kỳ có thể làm thật với những hăm dọa; bối rối vì VNCH không có nhiều thời giờ để xoay xở. Nhưng TTT vẫn giữ thái độ cứng rắn với Kissinger cho đến độ Kissinger thề sẽ không bao giờ trở lại Sài Gòn để nói chuyện nữa. Và VNCH — qua đại diện của TTT — cứng rắn với Hoa Kỳ cho đến khi không còn giải pháp nào khác.  Nhân chứng và tài liệu cho biết, TTT đã đôi lần bật khóc trong lúc nói chuyện với Kissinger hay Đại Sứ Bunker khi không giữ được sự tức giận — vì biết không thể làm gì được.  Những lá thư riêng ông viết cho Tổng Thống Nixon là một bằng chứng cho thấy ông chỉ mong muốn Nixon giữ đúng lời hứa. Nhưng với nền luật pháp chặt chẽ của Hoa Kỳ, lời hứa riêng của một tổng thống không có giá trị gì.

      Nhưng sự đau đớn và vô lý nhất — một vô lý không tưởng được — là sau một thời gian đôi bên cãi cọ, hăm dọa, nguyền rủa nhau và VNCH bị ép buộc phải ký hiệp ước chung với Hoa Kỳ. … Hiệp Định Ba Lê 1973 vẫn không được chánh phủ Hoa Kỳ đưa ra Quốc Hội để phê chuẩn. Theo Hiến Pháp Mỹ, tổng thống có quyền ký bất cứ hiệp ước nào với bất cứ quốc gia nào. Nhưng hiệp ước chỉ giá trị như một trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và quốc gia đối tượng; và của Hoa Kỳ đối với hiệp ước được ký. Trách nhiệm đưa hiệp ước ra Quốc Hội để được phê chuẩn là trách nhiệm của Hành Pháp (trong trường hợp này là tổng thống). Nhưng sử liệu cho thấy Tổng Thống Nixon đã không nhiệt tâm hay muốn cho Quốc Hội Hoa Kỳ thấy nội dung và những chi tiết của bản Hiệp Định Ba Lê 1973.
Sau này khi VNCH thất thủ, Quốc Hội nói họ không có trách nhiệm vì họ không biết gì về nội dung bản hiệp ước. Về phía Hành Pháp, tân Tổng Thống Gerald Ford thì lại càng có lý do hơn, khi nói ông hoàn toàn không biết gì về những hứa hẹn giữa chánh phủ trước (chánh phủ Nixon) và VNCH. Trong khi đó, những giới chức Mỹ đã phục vụ và liên lạc với chánh phủ TTT ở Sài Gòn thì chỉ biết … chửi đổng về chánh phủ mình. Nhưng tất cả những đổ thừa không còn thành vấn đề nữa: VNCH đã thất thủ. Kissinger và Nixon đã cố gắng giữ kín và bưng bít những chi tiết thương lượng với Hà Nội. Tài liệu giải mật của CIA cho thấy Kissinger gần như là độc tôn trong quyền hạn đại diện cho Nixon trong những thương lượng với VNCH và Bắc Việt. Tháng 8-1972, trước mặt Đại Sứ Bunker, Kissinger ra lệnh cho Trưởng Sở CIA Sài Gòn, Thomas Polgar, không được tiết lộ về tổng hành dinh CIA ở Lang Ley những chi tiết về cuộc thương nghị mà CIA Sài Gòn biết được qua liên lạc họ có bên trong nhân sự MTGPMN. Câu nói của TTT “Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi,” có thể áp dụng luôn với các thẩm quyền Mỹ trong trường hợp này. (16)
     TTT không tin người Mỹ — hay cá nhân Tổng Thống Nixon — nhưng phải đi theo kế hoạch sau cùng với họ vì ông không còn chọn lựa nào thích nghi hơn. Những thẩm quyền như Đại Tướng Abrams; Trưởng Sở CIA Sài Gòn Polgar; Đại Sứ Bunker … đều kết luận Hoa Kỳ đã phản bội VNCH. Nhưng những nhân vật này phải thú nhận, chính họ cũng không tiên đoán được những gì đã xảy ra. Dưới mắt một sử gia hiện đại — đồng thời là cựu nhân viên CIA cao cấp — TTT đáng được ca ngợi khi ông đã làm tất cả những gì ông có thể làm được trong giai đoạn đó, trong hoàn cảnh đó. (17)         


Liên Hệ Với Các Tướng Lãnh VNCH
Một số tác giả Mỹ và Việt dùng tĩnh từ “khôn vặt” cho TTT. Khảo sát cuộc đời TTT, người viết không nghĩ TTT chỉ khôn vặt. Sự khôn ngoan của TTT cao hơn khôn vặt nhiều. Chỉ bảy năm sau ngày ra trường (1949-1956) ông đã trở thành chỉ huy trưởng một trường đào tạo sĩ quan (Võ Bị Liên Quân Đà Lạt). Với không hơn 18 năm quân vụ (tính đến ngày ông trở thành tổng thống), và tổng cộng 15 tháng thụ huấn quân sự (tổng cộng thời gian ở Võ Bị Huế; trường Coetquidan, Pháp; Tham Mưu Chỉ Huy, Hà Nội …), TTT phải là một người khôn hơn “khôn vặt” khi ông loại trừ những đối thủ chính trị và quân sự, để nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Nhìn qua sự nghiệp chính trị của cố TTT, chúng ta thấy TTT có những đức tính cần thiết để “biết” mà sống. 

     Ít tuyên bố ngoài công cộng và kín đáo với những ý nghĩ hay kế hoạch, TTT có được tánh tốt cần thiết cho những quân nhân làm chánh trị trong bốn năm xáo trộn 1964-1967.  Từ năm 1964 — sau khi tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” và chiếm quyền từ tướng Dương Văn Minh — cho đến tháng 7-1967, ông Thiệu chứng tỏ được sự khôn ngoan so với các tướng lãnh trên và dưới. Trong khi hầu hết các tướng lãnh đàn anh hoặc bị giải nhiệm, lưu đày, hay giam lỏng, ông Thiệu dần dần lấy được sự tín nhiệm của đa số quân nhân qua sự kiên nhẫn và mềm mỏng khi giao thiệp. Nếu ông Thiệu đã xử dụng những mánh khoé về ngoại giao và chính trị để trở thành tổng thống vào tháng 10-1967, thì những mánh khoé đó phải hiệu nghiệm cho sự sống còn của giới tướng lãnh chính trị trong bốn năm xáo trộn 1964-67. Không nhiều thì ít, chắc chắn tướng Thiệu phải có ý kiến về số tướng lãnh bị lưu đày hay bị giải ngũ — và tất cả các vị tướng đó đều thâm niên hơn ông về cấp bậc (lên cấp tướng trước, sau). Vị tướng cuối cùng, Nguyễn Hữu Có, thâm niên cấp bậc cùng ngày với ông Thiệu (lên thiếu tướng ngày 2 tháng 11-1963), trong một chuyến công du ở Đài Loan năm 1967, bị bỏ lại và sau đó cấm trở về nước (đến tháng 1-1970 được chính tổng thống Thiệu cho phép hồi hương). (19)
   

 Cuộc bầu cử năm 1967 là một thí dụ về sự khôn ngoan của ông Thiệu. Trong cuộc bầu cử đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, tháng 10-1967, cả hai ông Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (Thiệu) và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Kỳ) đều muốn ứng cử tổng thống, không ai chịu ứng cử như phó tổng thống. Cả quyết liệt đến độ tuyên bố sẽ tách ra đứng riêng liên danh tổng thống. Nhưng Hội Đồng Tướng Lãnh không muốn thấy sự chia rẽ giữa hai người lãnh đạo quân đội. Và nếu ứng cử riêng liên danh, chưa chắc họ thắng được những liên danh dân sự. Đầu tháng 7-1967, sau hơn 48 tiếng đồng hồ nghị luận giữa các tướng lãnh trong Hội Đồng Quân Lực, hội đồng đề nghị hai người sẽ đứng chung liên danh: ông Thiệu, ứng cử tổng thống; ông Kỳ, phó tổng thống. Nhưng để đền bù lại, ông Kỳ sẽ có toàn quyền bổ nhiệm Thủ Tướng và các Tổng Bộ Trưởng của nội các; cũng như các tư lệnh quân sự trọng yếu. Ông Thiệu đồng ý và ký tờ cam kết với các tướng lãnh (20).  Dưới mắt mọi người qua, với những điều kiện đó, ông Thiệu sẽ trở thành một tổng thống bù nhìn không thực lực. Nhưng nếu nhìn xa hơn, chúng ta thấy sự khôn ngoan của ông Thiệu: Chiếu theo Hiến Pháp, tổng thống lúc nào cũng có toàn quyền; hứa với nhau bằng miệng hay ký giấy cam kết không thay đổi được quy định của hiến pháp. Hơn nữa, với tánh tình rất bốc đồng, trong tương lai ông Kỳ sẽ mất đi nhiều đồng minh trong quân đội. Với suy luận đó, ông Thiệu tạm thời chịu “nhường,” và kiên nhẫn chờ thế lực của phía ông Kỳ suy tàn. (21)

Triệt tiêu được thế lực của ông Kỳ, nhưng từ năm 1969 trở đi, TTT vấp phải một lỗi lầm về liên hệ trong hệ thống quân giai, về chiến lược và chiến thuật, khiến các sĩ quan tuớng lãnh không còn kính trọng ông như là một thủ lãnh. Để củng cố thế lực, năm 1968 TTT triệu hồi Đại Tướng Trần Thiện Khiêm về nước, bổ nhiệm làm phó thủ tướng kiêm tổng trưởng nội vụ, rồi thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng sau khi Thủ Tướng Trần Văn Hương từ chức. Cùng năm, ông đưa tướng Đỗ Cao Trí về làm Tư Lệnh Vùng III. Tháng 7-1970 ông ban hành một sắc lệnh, thay đổi cơ cấu quân sự trong tương quan giữa Bộ Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn/Quân Khu. Nói một cách khác, đến cuối năm 1970, các tướng lãnh đã “vào hàng” theo lệnh TTT. Nhưng để bảo vệ quyền lực và phòng hờ những biến động có thể xảy ra, TTT tập trung quyền lực trong tay — về hành chánh cũng như về quân sự — hành động này đã gây những phẫn nộ ngấm ngầm trong giới quân đội. Sự lo sợ đảo chánh khiến cho TTT giữ lại một số tướng lãnh lẽ ra ông phải cho họ giải ngũ từ lâu. Cũng vì sợ đảo chánh, ông có những liên hệ với một số tướng lãnh mà qua sự quan sát bên ngoài, không hợp với quân phong, quân kỷ (22).  Rất nhiều thí dụ cho thấy TTT bất cần hệ thống quân giai và chỉ huy quân đội thẳng từ Dinh Độc Lập: Trong cao điểm của cuộc hành quân Lam Sơn 719, Trung Tướng Lãm xin được từ chức vì ông không đủ quyền lực và sự ủng hộ của TTT để ra lệnh cho hai tướng Dư Quốc Đống và Lê Nguyên Khang. Cũng trong buổi họp đó, tướng Viên một lần nữa xin từ chức.   nvtletter2.jpg     letter3.jpg   Nhưng TTT không hành động. Không phải TTT có “vấn đề” khi cho hai vị tướng này giải ngũ; nhưng ông thấy khó tìm những sĩ quan khác trung thành với ông, để thay vào chỗ của hai vị tướng này. Một thí dụ khác là khi ông ra quân lệnh bắt giữ Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai trong khi Quảng Trị thất thủ tháng 5-1972. Thay vì chỉ cần “đề nghị” với Tổng Tham Mưu Trưởng, hay Tư Lệnh Vùng truy tố tướng Giai theo đúng tinh thần của hệ thống quân giai, ông Thiệu đích thân ra quân lệnh từ Phủ Tổng Thống (xem phóng ảnh 5-1). Lối xử dụng quyền hạn như vậy gây nhiều bất mãn trong quân đội — một tổ chức chỉ trường tồn trong hệ thống quân giai nghiêm ngặt. (23)
     Trong hai năm sau cùng của VNCH, quyền chỉ huy quân đội càng lúc càng bị thu gọn vào Dinh Độc Lập. Quân đội VNCH bị thất thế trước lối chống cộng mãnh liệt và quyết tâm của TTT: ông khăng khăng đòi hỏi quân đội — một quân đội càng ngày càng yếu vì thiếu viện trợ — phải triệt để bảo vệ Chủ Trương Bốn Không mà ông đã đề ra vài năm trước. Một trong bốn không này là “không nhượng đất” cho cộng sản. Nhưng với số quân viện càng ngày càng ít hơn, khả năng cơ động của quân lực không còn nữa. Phí tổn để bảo vệ những tiền đồn ở xa trở nên quá tốn kém. Nhưng tổng thống Thiệu vẫn quyết liệt với chủ trương không nhượng đất — dù những phần đất không có một lợi ích gì về chiến thuật hay chiến lược.

Khi VNCH mất Phước Long vào cuối năm 1974, tổng thống Thiệu có thay đổi đôi chút chủ trương không nhượng đất của ông. Nhưng đến lúc đó thì quá trễ. Tháng 3-1975, sau khi CSVN chiếm Ban Mê Thuột, chỉ trong ba tuần tổng thống Thiệu đơn thân quyết định một số kế hoạch quân sự chiến lược vô cùng tai hại, để đưa đến sự thất thủ hoàn toàn của VNCH hơn một tháng sau.
Sau khi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3, và ngay ngày ba sư đoàn CSBV đánh vào Xuân Lộc, Đại Tướng Viên có làm một phiếu đệ trình lên TTT, xin phép thành lập một Quân Đoàn Dã Chiến, với thẩm quyền điều khiển hai quân chủng Không Quân và Hải Quân. Người viết không tìm được sử liệu cho biết phản ứng của TTT về phiếu đệ trình của tướng Viên. Nhưng đến ngày 12 tháng 4 mà tướng Viên mới đề nghị như vậy thì quá trễ. Điều này cho chúng ta thấy: (a) Bộ Tổng Tham Mưu VNCH không có thẩm quyền như danh xưng, và (b) TTT thật sự điều khiển Quân Lực VNCH thẳng từ quyền lực tổng thống, bất chấp hệ thống quân giai. Một trong hai — hay cả hai — sự kiện đó có thể là những yếu tố đưa đến sự thất thủ của VNCH./
NGUYỄN KỲ PHONG (1)  Người viết xử dụng một số báo cáo về TTT sau đây: Central Intelligence Agency. Office of Central Reference, Biographic Register: Chairman, National Directory Committee (24 June, 1965/ declassified 11-20-1986); Defense Intelligence Agency. Biographic Data: President Nguyen Van Thieu (July 1968/ declassified 8-2-1999); Embassy SAIGON: Some Aspects of Personal Relations Among Senior RVAF Officers (August 15, 1971; declassified 8-20-2009).
Người viết xin cảm tạ bạn Jay Veith — một chuyên viên về sử liệu chiến tranh Việt Nam và cũng là một tác giả — đã cung cấp tài liệu giải mật mới nhất về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà người viết đã trích trong bài. “Cáo già,” “khôn vặt” là từ nguyên thủy dùng trong báo cáo tháng 8-1971.
(2) Thomas L.. Ahern, Jr., CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam (Center for the Study of Intelligence, Central Intelligence Agency, 2009). Đây là tập tài liệu tối mật, viết sâu rộng về liên hệ của Hoa Kỳ với các thẩm quyền VNCH.

(3)  Đại sứ Bunker, từ tháng 5-1967 đến tháng 5-1973, mỗi tuần viết một báo cáo về cho tổng thống Lyndon Johnson, và sau đó là Richard Nixon. Những báo cáo này — trừ đi một số vẫn chưa được giải mật —  nằm trong bộ sách ba quyển, Douglas Pike, The Bunker Papers: Report to the President from Vietnam, 1967-1973 (University of California, Berkeley, 1990). Đại sứ Bunker có nhiều ý kiến cá nhân về hai ông Thiệu, Kỳ, trong báo cáo. Trong 96 báo cáo hàng tuần người đọc thấy Đại Sứ Bunker dần dần thay đổi ý kiến của ông về TTT: Từ những chỉ trích gay gắt ở những báo cáo đầu — mà trong dó có những tĩnh từ chỉ ông Thiệu như chơi xấu, tiểu nhân, không tôn trọng luật công bằng —  nhưng đến giữa năm 1969, ông Bunker từ từ thay đổi nhận xét của ông về TTT, báo cáo viết với nhiều lời khen ngợi và tán tụng. Ngược lại, với sự  trầm tĩnh hiếm có của một nhà ngoại giao, Đại Sứ Bunker đã chinh phục được TTT. Giới thẩm quyền Hoa Kỳ ở Sài Gòn nhận xét là, chỉ có Bunker mới thuyết phục được TTT trong những giai đọan khó khăn giữa liên hệ Mỹ-Việt.      
(4)  Central Intelligence Agency, Office of Current Intelligence, 28 August 1963, Subject: Cast of Characters in South Vietnam. McGeorge Bundy là người thuyết trình cho Tổng Thống Kennedy về những nhân vật chống và ủng hộ Tổng Thống Diệm đương thời. (5)  Đại Tá Thiệu được thăng cấp thiếu tướng một ngày sau khi đảo chánh thành công. Theo hồi ký của Trung Tướng Trần Văn Đôn, Việt Nam Nhân Chứng, ngày 2 tháng 11-1963, khi đến trình diện tướng Đôn, ông Thiệu móc trong túi ra một cặp sao thiếu tướng và đưa cho ông Đôn. Ông Đôn viết trong sách là ông ngạc nhiên khi thấy đại tá Thiệu có sẵn cặp sao trong túi. Đại Tá Thiệu là một trong hai đại tá duy nhất được thăng tướng ngay sau ngày đảo chánh. Người kia là Đại Tá Nguyễn Hữu Có. Mười giờ sáng ngày 2 tháng 11-1963, Tư Lệnh MACV Paul Harkins báo cáo về Tổng Tham Mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên Quân Maxwell Taylor, là hai Đại Tá Có và Thiệu đã được thăng cấp tướng. Nhưng cũng trong một báo cáo khác từ Harkins gởi về Taylor 6:36 chiều cùng ngày,  danh sách lên tướng có thêm tên Đại Tá Lâm Văn Phát. Báo cáo về thái độ của Đại Tá Thiệu nằm trong Foreign Relations of the U.S,  Vietnam, August-December 1963, các trang 48, 509, 534. Hơn ba tháng trước đó, trong một báo cáo ngày 16 tháng 8-1963 do CIA soạn thảo (mà tác giả là William E. Colby), ghi nhận về Đại Tá Thiệu “… Công Giáo, gốc miền Trung, ủng hộ Ngô Đình Nhu và có thể trung thành với chế độ.” Đọc Foreign Relations of the U.S., Vietnam, January-August 1963, trang 580. 
 
(6)  Chánh phủ VNCH phóng thích một số nhân sự quan trọng của MTGPMN đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ của Trần Bạch Đằng (Mai Thị Vàng)  và Trần Bửu Kiếm (Phạm Thị Yến), và một số cán bộ giao liên. Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng vì áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với MTGPNM. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng tháng 12-1967, VNCH thả bà Vàng và bà Yến, cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Đổi lại, phía MTGPMN chỉ thả ba tù binh Hoa Kỳ. Sau cùng, kế hoạch này cũng không đi đến đâu. Nhưng tài liệu cho thấy CIA đã xâm nhập được một số nhân sự của MTGPMN, nhưng không biết phải từ kế hoạch này không.
(7) Xem Ahern, sđd, trang 83-88.
(8) Ahern, sđd dẫn, trang 82.
(9) Ahern, sđd, trang 38. CIA nói từ tháng 8 đến tháng 12-1965, CIA cung cấp cho Thích Trí Quang 2.000.00 đồng (tương đương 12.500 mỹ kim giá đương thời).
(10) William E. Nelson, Chief, Far East Division, Memorandum for the DCI [Director, Central Intelligence], “President Thieu’s Comment  on the CIA”, 5 February 1969. Trích theo Ahern, sđd, trang 87. Khuyến cáo của Nelson đúng được phân nửa vào năm 1975, khi TTT tung ra công luận những trao đổi bí mật giữa ông và Tổng Thống Richard Nixon.
 (11) Về những liên lạc giữa Nixon-Chennault-Thiệu; và khả năng nghe lén của FBI, CIA, và Nha Truyền Tin Mật Mã Quốc Gia (National Security Agency), đọc Bùi Diễm, In the Jaws of History; William Bundy, Tangled Web; và, Thomas Powers, The Man Who kept the Secrets: Richard Helms and the CIA. Sự kiện (nghe lén) này cũng được giải mật và đăng trong Foreign Relations of the United States: Vietnam, September 1968-January 1969.
(12) Theo lời ông Châu, và cũng theo hồ sơ của CIA, ông Châu có liên lạc với người em là Trần Ngọc Hiền, một cán bộ cộng sản, từ năm 1964. Xem Thomas Ahern, sđd, trang 93-94.

(13) Kissinger đến Sài Gòn bàn thảo về đề nghị của Hà Nội lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 8-1972. Sau lần nói chuyện khai mào này, TTT ngưng liên lạc với thẩm quyền Mỹ hơn một tháng sau. Trưởng Sở CIA Sài Gòn kể lại là Kissinger nói thẳng với TTT, nếu Hà Nội chấp nhận ngưng bắn và thả tất cả tù binh Mỹ, thì Hoa Kỳ sẽ chấp nhận đề nghị của Hà Nội, bất chấp diễn tiến quân sự đang xảy ra tại miền Nam. Hà nội xử dụng lá bài tù binh Mỹ rất hiệu nghiệm trong lúc  thương nghị và sau khi Hiệp Định được ký. Đọc Ahern, sđd, trang 117-118.  

(14) Giai đoạn sau cùng của VNCH và liên hệ giữa TTT và Hoa Kỳ không phải là chủ đề của bài viết. Về giai đọan này, đọc Larry Berman, No Peace, No Honor, Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam. Về những bức thư cam kết và hứa hẹn của Tổng Thống Richard Nixon, đọc Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold Schecter, The Palace File. Cố Vấn Tổng Thống Nguyễn Phú Đức, trong hồi ký The Viet-Nam Peace Negotiations: Saigon’s Side  of the Story,  kể lại qua những lần đối thoại với Kissinger và Nixon, ông thấy thẩm quyền Mỹ muốn nhắn với TTT là Hoa Kỳ sẽ chấp thuận bản đề nghị của Hà Nội, và sẽ phê chuẩn hiệp định trước năm 1972. Và Hoa Kỳ sẽ đơn phương làm chuyện đó nếu VNCH không chịu hợp tác theo lịch trình do người Mỹ định. Chữ đơn phương (unilateral) được nhấn mạnh và lập lại nhiều lần.    
(15) Sau lần đến Sài Gòn tháng 8, Kissinger trở lại một lần nữa vào ngày 20 tháng 10-1972. Sau lần này Kissinger  thề không trở lại vì  bị “lật tẩy.” Sau Kissinger, người đại diện cho Nixon là Thiếu Tướng Alexander Haig (năm 1972, Haig vẫn còn mang cấp bậc thiếu tướng). Nhưng như là một quân nhân, Haig nói chuyện rất thẳng thắn. Ông thông báo cho TTT biết, ông đến đây không phải để thương lượng, vì ông không có thẩm quyền thương lượng. Ông đến đây để cho TTT biết Hoa Kỳ sẽ làm gì. Nếu VNCH không hợp tác theo đề nghị, thì liên hệ ngoại giao Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn và bị tổn thương, nhưng phía VNCH sẽ bị tử thương.  Xin viết thêm một chút về tướng Haig: Năm 1975 Haig mang cấp bậc đại tướng và là Tư Lệnh NATO. Trước những cuộc tấn công ồ ạt của CSBV, Haig viết một lá thư cho Kissinger, đề nghị phải trả đũa ngay lập tức. … Ngăn chận CSBV “không phải để bảo vệ VNCH nhưng để bảo vệ sự vẹn toàn cho những hiệp ước mà Hoa Kỳ đã ký và sẽ ký trong tương lai”. Đọc Nguyễn Phú Đức, sđd, trang 364. Những lần trao đổi giữa TTT và Haig, được ghi lại trong hồi ký của tướng Haig, Inner Circles: How America Changed the World. A Memoirs.

(16) Trưởng Sở CIA Thomas Polgar nói lên sự vô lý về hành vi của Hoa Kỳ (ít ra là qua hành vi của Kissinger)  trong cuộc thương nghị: trong khi Hà Nội thông báo cho nhân sự ở hạ tầng cơ sở thấp nhất biết mọi chi tiết và diễn biến của cuộc thương lượng, thì phía Hoa Kỳ chỉ có một số tối thiểu thẩm quyền tối cao mới biết được diễn tiến của cuộc thương lượng. Đọc Ahern, sđd, trang 119.  Lời hứa của Kissinger về số tiền bốn tỉ mỹ kim tái thiết hậu chiến cho miền Bắc, là một trong nhiều thí dụ về sự che dấu của Kissinger và Nixon với Quốc Hội Mỹ — Quốc Hội Mỹ biết được hứa hẹn đó qua một khám phá tình cờ và rất tức giận với những hứa hẹn không có thẩm quyền đến từ quốc hội. Về chuyện này, đọc Randall B. Woods, Fulbright: A Biography.
(17) Lewis Sorley, Reassessing ARVN (A Lecture Delivered at the Vietnam Center, Texas Tech University, 17 March 2006), trang 18

(18) Trung Tướng Trần Văn Đôn viết trong Việt Nam Nhân Chứng,  lúc Trung Tướng Dương Văn Minh nhận định về tánh tình và tư cách chính trị của các quân nhân trong Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng, ông chỉ vào Thiếu Tướng Thiệu và nói, “Ông này thì làm chánh trị và lãnh đạo được.” Đối với Trung Tướng Đôn, ông Minh phán, “Ông có quá nhiều tình cảm để làm chính trị.” 

(19) Nếu để ý, chúng ta thấy ông Thiệu lần lần “triệt tiêu” các sĩ quan thâm niên về quân vụ và cấp bậc hơn ông. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao viết trong hồi ký (Một Kiếp Người, trang 172-73), là đích thân ông Thiệu cho ông 100.000 đồng và đề nghị ông giải ngũ, rồi Hội Đồng Tướng Lãnh sẽ giúp ông ứng cử nghị sĩ. Sau tướng Cao là đến Thiếu Tướng Đỗ Cao Trí (lên tướng tháng 7-1963). Trung Tướng Nguyễn Hữu Có (lên tướng cùng ngày với ông Thiệu) là người cuối cùng bị lưu đày. Tướng Có là một tiểu đoàn trưởng, ông Thiệu là trưởng Ban 3, khi hai người đóng chung ở Tiểu Khu Hưng Yên, 1952-53. 
(20) Xem phóng ảnh 4-2, cam kết giữa ông Thiệu và các tướng lãnh trong Hội Đồng Quân Lực. Theo tướng Cao Văn Viên, người soạn thảo bản cam kết là Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng.

(21) Sau khi đắc cử, luật sư Nguyễn Văn Lộc được bổ nhiệm thủ tướng như cam kết. Tuy nhiên, khi báo chí loan báo tổng thống và phó tổng thống sẽ xuất hiện chung trên hệ thống truyền thanh để “ra mắt” với dân chúng, một phụ tá của TTT cho biết, như là một tổng thống, ông Thiệu sẽ xuất hiện theo lịch trình ông muốn, và với những người  ông muốn. Qua hành động đó, ông Thiệu không chỉ khôn vặt.

(22) Đại tướng Creighton Abrams, trong một buổi họp với các tướng lãnh của Bộ Tư Lệnh MACV vào tháng 1-1969, đã phàn nàn về tư cách của TTT khi ông thường xuyên mời tướng Đỗ Cao Trí và Hoàng Xuân Lãm vào Dinh Độc Lập dùng cơm. Từ liên hệ thân mật đó, TTT trực tiếp ra lệnh, thông báo tin tức và huấn lệnh thẳng cho họ, bỏ qua hệ thống quân giai mà chính ông đã viết trong ra sắc lệnh. Tướng Abrams nói TTT đối xử như vậy thì “kẹt” cho tướng Cao Văn Viên (như là một Tổng Tham Mưu Trưởng), vì có những quân lệnh từ tổng thống trong khi tướng Viên chưa biết mà các tướng Tư Lệnh Vùng đã biết trước rồi. Đọc Lewis Sorley, The Abrams Tapes. 1968-1972, trang, 106, 109, 114.  
(23) Quảng Trị thất thủ ngày 1 tháng 5-1972; TTT bổ nhiệm tướng Trưởng thay tướng Lãm ngày 3 tháng 5; TTT viết quân lệnh bắt tướng Giai ngày 12 tháng 5. Giọng văn trong quân lệnh của TTT rất bất công và thiên vị. Qua hai quân lệnh (phóng ảnh 5-1 và 6-1) chúng ta thấy TTT vẫn chưa chắc chắn với quyết định của ông: Quân lệnh chỉ thị tái lập trật tự ở Vùng I đề tên người nhận là tướng Lãm, nhưng phía dưới trang sau cùng, TTT viết tay đề tên tướng Trưởng. Điều này cho thấy ngày 3 tháng 5, khi viết quân lệnh cho tướng Lãm, TTT đổi ý và bổ nhiệm tướng Trưởng. Nhưng ông không màng cho người thảo lại quân lệnh, mà dùng luôn bản văn, gởi cho tướng Trưởng. Nhưng tại sau buộc tội tướng Giai trong khi chính tướng Lãm là người phải chịu trách nhiệm. Vì sau hai tuần sau khi cộng sản tấn công vào Quảng Trị, tướng Lãm vẫn không nắm được tình hình, và cho đến ngày 13 tháng 4, ông mới từ Huế trên đường ra Quảng Trị để quan sát tình hình. Dọc đường ông chận một sĩ quan TQLC lại và yêu cầu người sĩ quan này tường trình cho ông diễn tiến cuộc tấn công đang xảy ra hơn 14 ngày rồi! Đọc MX Ngô Văn Định, Chiến Thắng của Lữ Đoàn 258/TQLC ở Quảng Trị, Tháng 4-1975, trong tuyển tập Hai Mươi Mốt Năm Chiến Trận của Binh Chủng TQLC Việt Nam.  Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, trong The Easter Offensive of 1972, nói ông biết tướng Giai là một sĩ quan Nhảy Dù gan dạ và có khả năng chỉ huy. Và ông sẳn sàng nhận tướng Giai phục vụ lại với quân đoàn của ông. Ở đây người viết xin cảm ơn tiến sĩ Martin Loicano đã cung cấp một số tài liệu đến từ Bộ Tổng Tham Mưu VNCH và Phủ Tổng Thống, liên quan đến Huấn Lệnh bắt giữ Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai; và Huấn Lệnh cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm/ Ngô Quang Trưởng, tái lập trật tự ở Vùng I, sau khi Quảng Trị thất thủ.   Nhận định của Long Điền qua các tài liệu Giải Mật của Mỹ: 1-Tổng thống Thiệu đã hiểu rõ và không tin tưởng vào người Mỹ, nhưng ông không có con đường lựa chọn nào khác vì nền kinh tế của VNCH không vũng mạnh  do chiến tranh triền miên (từ âm mưu của Cộng Sản Quốc Tế), kẻ nào (Mỹ)bỏ tiền ra cho cuộc chiến thì họ có nhiều thẩm quyền và áp lực cho cuộc chiến theo  nhận định chiến cuộc của họ. 2-CIA đã gài nhiều người vào dinh TTT để nghe lén, điều nầy chứng minh  là  TTT chỉ phục vụ cho quốc gia VN, ông buộc lòng phải chấp nhận Mỹ như một đồng minh  bất hảo.  CIA cũng đã hiểu điều đó! 3-Trong khi đó nhiều tài liệu 2 bên cho thấy chính phủ VNDCCH (Bắc Việt) hoàn toàn phục vụ và trung thành với các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng một cách tuyệt đối! 4-Mỹ không có một quyết tam nào để chiến thắng trên chiến trường VN. Ngược lại Liên Xô và Trung Cộng thì có nhiều quyết tâm chiến thắng tại VN. Riêng Trung Cộng vừa có quyết tâm chiến thắng vừa có mưu đồ xâm lăng cả nước VN sau khi cả hai miền đều suy yếu sau chiến tranh.  Cơ chế vận hành của chính quyền Mỹ tùy thuộc vào Quốc Hội và dân chúng Mỹ. Trong khi đó Liên Xô và Trung Cộng là những thế chế độc tài toàn dân phải nghe theo lệnh đảng Cộng Sản nên quyết tâm dành chiến thắng tại VN vững vàng hơn. 5- Bài học cho người dân VN là nếu chấp nhận một cuộc chiến (bão vệ Tự Do trước hiểm họa CSQT) thì phải do quyết định và thực lực của toàn dân, bằng không thì dựa vào bất cứ một thế lực ngoại lai nào cũng dễ thất bại. Dựa vào lời cam kết nào thì phải có Hiệp Ước hẳn hoi thì mới không bị đồng minh phản bội (Mỹ không thể bỏ rơi Nhật và Nam Hàn vì có ký Hiệp Ước song phương.)

Những câu nói nổi tiếng cuả Ông Nguyễn Văn   Thiệu khi nắm giử chức vụ Tổng Thống VNCH [vii]

“ Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!

Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản –

Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng –

(Biếm chỉ chính sách đấu tố của Cộng sản )

Đất nước còn, còn tất cả; cộng sản thắng, mất tất cả.

  Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.

Sống không có tự do là đã chết. ”

TS Nguyễn Tiến Hưng nói về cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Interview-with-Dr-Nguyen-Tien-Hung-about-the-book-President-Thieu-s-deepest-thoughts-HGiang-05142010111919.html

Hà Giang, thông tín viên RFA
2010-05-14

Ngay dịp đánh dấu 35 năm biến cố 30 tháng tư, một quyển sách mới về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ được ra mắt vào 1 giờ chiều ngày Chủ Nhật, 16 tháng Năm tại thành phố Westminster, Little Sài Gòn.

AFP PHOTO

Một người đang xem hình ảnh di tản ở Sài Gòn năm 1975 được chụp bởi Hugh Van Es trên tường Câu lạc bộ các phóng viên nước ngoài tại Hồng Kông.

Quyển sách tuy chưa ra mắt nhưng đã được sự chú ý và trông đợi từ nhiều giới, những người quan tâm đến Việt Nam Cộng Hoà, qua những tin tức từ không gian ảo. Tác phẩm mang tên “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” do tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và cũng là cố vấn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào những năm cuối cùng trước biến cố 1975 biên soạn.

Giữa những lời khen chê từ hằng chục năm nay, tác giả trình bày những uẩn khúc trong tâm tư của vị Tổng Thống cuối cùng của VNCH ra sao, và cuốn sách đã được viết trong bối cảnh nào, Hà Giang có cuộc phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng .

Bối cảnh ra đời

Hà Giang: Chào tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu của ông sắp được cho ra mắt vào ngày Chủ Nhật, 16 tháng Năm tới đây, tại Little Sài Gòn. Xin ông cho biết trong bối cảnh nào và lý do nào đã thúc đẩy ông bỏ công soạn cuốn sách rất là công phu này?

Từ năm 2006 cho đến bây giờ, đã có rất nhiều những giải mật mới về phía Hoa Kỳ rất là quan trọng cho lịch sử. Những giải mật mới này, đã soi sáng cho những điều mà chúng tôi viết ở trong cuốn sách mới này về tâm tư tổng thống Thiệu.

TS Nguyễn Tiến Hưng

TS Nguyễn Tiến Hưng: Thưa cô Hà Giang, năm 2005, chúng tôi xuất bản cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, và độc giả đã đặt rất nhiều câu hỏi về những diễn biến ở nơi hậu trường trong những năm 73, 74, 75, và tâm tư của ông Thiệu. Đặc biệt nữa, là từ năm 2006 cho đến bây giờ, đã có rất nhiều những giải mật mới về phía Hoa Kỳ rất là quan trọng cho lịch sử. Những giải mật mới này, đã soi sáng cho những điều mà chúng tôi đã viết trước đây, và nó còn soi sáng rõ hơn nữa những điều mà chúng tôi viết ở trong cuốn sách mới này về tâm tư tổng thống Thiệu.

Hà Giang: Trong phần mở đầu của cuốn sách, tiến sĩ có nói rằng, tâm tư của tổng thống Thiệu cũng là tâm tư của riêng ông, và có lẽ là tâm tư của nhiều người Việt Nam khác, xin tiến sĩ nói về cái tâm tư này ạ.

TS Nguyễn Tiến Hưng: Tôi cũng phải xác định là tâm tư của ông ấy thì tôi nghĩ rằng rất là phức tạp về nhiều khía cạnh. Riêng về tâm tư đối với đồng minh thì chúng tôi có thể nói là chúng tôi biết được khá rõ ràng, là vì làm việc gần ông, và sau này được nghe rất nhiều lời tâm sự, sau 75, thì thưa cô tôi có thể tóm tắt đó là một tâm tư rất là trăn trở, rất là ray rứt, vì một phần thì cần đến người đồng minh từ bao gạo cho đến lít xăng, súng đạn v.v…

Đấy, một đàng thì lại rất là trăn trở trong lòng vì những hành động của ngừơi đồng minh ấy. Thì ông (Thiệu) nói là nay thế này, mai thế khác, tín hiệu lẫn lộn, không biết thế nào mà mò. Chúng tôi có viết chương 18, về cái bài phỏng vấn rất dài, của ông với một tờ báo Đức, tên là “Der Spiegel”, trong cái bài đó, tổng thống Thiệu đã nói rất nhiều về cái mà ông gọi là “sự phản bội”, ông ấy bảo là 4 đời tổng thống Hoa Kỳ đã khuyến dụ nhân dân miền Nam đi vào cái khối của thế giới tự do, rồi cuối cùng tháo lui bỏ chạy. Và đặc biệt là có những cái cam kết rất là vững chắc, thân tín rồi cuối cùng cũng lờ đi.

Cái bài đó tựa đề là “Người Mỹ đã phản bội chúng tôi”, chúng tôi có in lại tòan bộ bài đó từ tiếng Đức được dịch ra tiếng Anh, rồi có bút phê của ông (Thiệu) rất là cẩn thận. Nhưng mà đặc biệt có một tâm tư mà chúng tôi nghĩ rằng nó phản ảnh phần nào cho tâm tư của chính cá nhân chúng tôi, và nhiều người trong chúng ta, đó là về phía ông ấy cũng như về phía nhân dân miền Nam thì dù rằng có nhiều khuyết điểm, dù rằng yếu kém, dủ rằng có lỗi lầm, tham những này kia v.v…, nhưng mà cuối cùng thì cũng đã cố gắng hết sức.

Thieu_Johnson-250

Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu & cựu TT Lyndon Johnson. Photo courtesy of wikipedia

Hà Giang: Một trong những tranh cãi kéo dài rất lâu là việc mà người ta tưởng rằng tổng thống Thiệu khi ra đi đã mang theo16 tấn vàng cho mục đích cá nhân. Trong cuốn sách của ông, tiến sĩ đã đề cập đến việc này, xin ông tóm tắt cho thính giả của đài Á Châu Tự Do nghe.

TS Nguyễn Tiến Hưng: Phải nói riêng về cái vụ vàng thì ông ây hòan tòan oan uổng. Mặc dầu là chúng tôi cũng đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”, và cho tới một tháng trứơc đây, thưa cô, cũng vẫn có người hỏi tôi.

Trong cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” chúng tôi có để cả một chương viết về việc này. Trong vòng hai ba năm qua đã có những tài liệu rất rõ ràng, đó là những mật điện của đại sứ Martin đánh vào Sài Gòn từ đầu tháng Tư cho đến 17 tháng Tư, đánh liên tục về cái chuyện vàng, thì là câu chuyện nó là như thế này, rất là tóm tắt: Lúc bấy giờ là hết rồi, viện trợ coi như là cạn kiệt có 700 triệu, thế thì, sau cùng ông (Thiệu) bảo là thôi thì bây giờ còn bao nhiêu vàng còn bao nhiêu đô la thì có thể là mang ra để mà ‘xả láng’, ông dùng cái chữ ‘xả láng’ đó.

Thì đầu tiên đó là bàn với lại thống đốc ngân hàng quốc gia là ông thống đốc Uyển bàn với đại sứ Martin thì ông Martin cố vấn là phải mang sang Thụy Sĩ để mà mua tiếp liệu bên đó nó dễ hơn bên Mỹ tại vì bên Mỹ thì bị ràng buộc rất nhiều luật lệ. Thế thì, có cái lệnh cho thống đốc Uyển, mà ông Uyển vừa mới contact làm việc với mấy hãng máy bay, tôi nhớ là TWA, Howard Hughes mà bây giờ không còn nữa, để mà chở cái số vàng 16 tấn đi, thì tin đó bị lộ ra ngoài. Các hãng bảo hiểm, tôi nhớ là Lloyd’s of London, là hãng bảo hiểm lớn, bởi vì khi chở một số vàng lớn như vậy thì phải có bảo hiểm. Những bảo hiểm lớn như vậy người ta bán insurance policy, thì hãng bảo hiểm đó co vòi lại, rút lại không bán bảo hiểm, thế là số vàng khựng lại. Báo chí Sài Gòn lúc ấy hình như có đăng tin, hay là có rumor rất mạnh là lúc ấy ông Thiệu đang chở vàng đi, thì thưa cô lúc bấy giờ ai cũng phủi tay hết, nhưng mà ông ấy cứ cương quyết, thống đốc Uyển vẫn cứ liên lạc với đại sứ Martin, thì đại sứ Martin sau cùng đã liên lạc với bộ quốc phòng Hoa Kỳ.

Trong cuốn sách này chúng tôi viết, in lại những mật điện nguyên thủy đó để làm bằng chứng cho lịch sử. Và mới đây thì chúng tôi được biết là báo Tuổi Trẻ của Sài Gòn có một bài rõ ràng của anh Hủynh Đỗ Sơn. Anh Hủynh Đỗ Sơn là người làm việc coi về kho vàng của ngân hàng quốc gia trước 75. Anh ấy viết lại rất rõ ràng việc chuyển nhượng lại số vàng tính từng ly từng lượng và anh ấy ghi rõ con số nào số mấy, hai hầm vàng, mười sáu tấn vàng để ở đâu, ở đâu. Thưa cô thì cái đó là rất rõ ràng, và bây giờ tôi nghĩ là sau cuốn sách này, thì chuyện vàng hòan tòan được giải tỏa đối với ông Thiệu, thưa cô.

Phơi bày nhiều uẩn khúc

Hà Giang: Vâng, thưa tiến sĩ, thế còn cái câu “I have nothing to do with the Vietnamese refugees”, có nghĩa là “tôi không dính dáng gì đến mấy người tị nạn Việt Nam cả, mà người ta cho rằng tổng thống Thiệu đã nói, thì đầu đuôi nó ra làm sao ạ?
TS Nguyễn Tiến Hưng: Thưa cô Hà Giang, tôi viết ngay ở trong phần đầu về cái chuyện này. Tôi nghĩ rằng đây là chuyện làm cho ông ấy đau đớn nhất, có thể nói là đau đớn nhất, đứng về phương diện cá nhân. Từ sau 1975, thưa cô. Chuyện tóm tắt thì nó như thế này. Khoảng cuối năm 79, tháng Mười, thì có những tờ báo của chúng ta, có đăng tải trang đầu rằng ông Thiệu nói cái câu là “tôi không còn cái gì mà mắc mớ đến vấn đề thuyền nhân nữa”, mà đang khi đó thì phong trào thuyền nhân đang là lên rất cao, mọi người đang cố gắng hết sức để mà lo cái chuyện này. Hai hôm sau thì tôi nhận lá thư của ông.

Chính ông kể lại chuyện nó như thế nào? Tức là ông ấy nói rằng, có một cái thằng, ông ấy gọi là cái thằng. Ông tức ai ông hay nói thằng lắm. Thì cái thằng Michael Dunlop thuộc tờ báo NOW, now là bây giờ, ông bảo ông cho phỏng vấn rất là vắn. Vấn đề kẹt là chữ “for” và chữ “with”, thì ông Thiệu nói rằng, khi họ hỏi ông rằng, ông có thể làm được cái gì, đối với vấn đề thuyền nhân hay không, thì ý ông muốn nói là, bây giờ tôi không còn quyền hành gì nữa, không còn phương tiện gì đề mà làm được bất cứ cái gì đối với vấn đề này.

Nguyen_Van_Thieu_with_mapdonga-wiki-250

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quan sát bản đồ Đông Á. Photo courtesy of wikipedia

Thì nếu mà ông muốn nói như vậy thì phải nói là “I have nothing to do for them”, theo ông nhà báo, thì ông Thiệu nói là “I have nothing to do with them”. Chỉ có mỗi một chữ “for” với chữ “with”, mà nó thay đổi hẳn cái ý nghĩa, thưa cô. Ông đau đớn lắm. Đó là lần đầu tiên, và duy nhất trong cụôc đời, tự tay ông viết một cái thư để mà tự cải chính với Editor-in-Chief của báo NOW, và thư đó ông yêu cầu tôi rất rõ ràng, là vấn đề nó như vậy, thì  anh tìm cách nào mà clear up, cải chính dùm tôi.

Hà Giang: Trong cuốn sách của tiến sĩ, có một chương nói hẳn về tính đa nghi của tổng thống Thiệu, nhưng cũng lại có một chương khác lại nói là ông Thiệu quá tin vào người Mỹ. Một người rất là đa nghi thì có thể quá tin vào ai được không ạ? Đó có phải là một điều mâu thuẫn không thưa tiến sĩ?
TS Nguyễn Tiến Hưng: Vâng thì, nếu mà mình đặt câu hỏi như vậy, một cái chương có tựa đề là “Đa nghi Tào Tháo”, thì kể lại những cái chuyện ông chỉ cho tôi cách mà đa nghi nữa cơ. Ông bảo vậy. Ông bảo anh phải cẩn thận từ cái chấm, cái phẩy anh cũng phải, thật ra ông chỉ cho mình đa nghi. Nhưng còn cái chuyện tin vào Mỹ thì tôi nghĩ rằng ông ấy vẫn nghi Mỹ, chuyện ấy ông cũng nói rất dài trong tâm tư của ông mà chúng tôi đã viết lại. 
Hà Giang: Nhiều người đã đổ lỗi cho tổng thống Thiệu là chính ông đã làm mất Việt Nam, và lên án ông là đã rời đất nứơc ra đi khi quân sĩ vẫn còn đang ở lại chiến đấu. Theo tiến sĩ thì những suy nghĩ này có quá khe khắt với tổng thống Thiệu không?

TS Nguyễn Tiến Hưng: Cái vấn đề mất Việt Nam nó có nhiều khía cạnh lắm, nó là một câu hỏi lớn. Tôi nghĩ rằng có rất nhiều dữ kiện nó đưa đến vấn đề sụp đổ của miền Nam. Tôi nghĩ rằng một mình ông Thiệu cũng không phải là người có khả năng để mất Việt Nam. Nhưng mà tôi nghĩ rằng hòan cảnh của ông ấy rất là khó khăn trong lúc đó là vì, cuối cùng thì cạn kiệt hết miền Nam, dựa vào Hoa Kỳ quá nhiều, đến lúc mà cắt cái umbilical cord thì coi như là mình không còn cái khả năng tồn tại nữa.

Dư luận nói rằng là ông đã bỏ chạy, đào ngũ, thì thưa cô, trong cuốn sách này, chúng tôi đã viết rất rõ ràng, là ông đã bị áp lực từ chức. Áp lực rất mạnh mẽ, tiến sĩ Kissinger qua đại sứ, bằng cách nói với ông rằng, ông mà không từ chức, thì cơ hội cuối cùng cho miền Nam là không còn nữa, tức là đặt vào vai ông một trọng trách vô cùng nặng nề.

Điều thứ hai là ông không từ chức thì tướng lãnh của ông cũng bắt ông từ chức, thì cô nghĩ là hai còn đừơng đó thì không còn cách nào nữa. Nhưng mà ông vẫn vớt vát vẫn vớt vát, ông hỏi: “Ừ thì tôi từ chức, nhưng mà tôi từ chức thì có viện trợ không? Đại sứ Martin nói là nếu mà ngài từ chức, có thể có, có thể không, nhưng mà nếu ngài không từ chức, thì chắc chắn là không. Thì thưa cô, thì cái đó là cái áp lực. Đó là áp lực từ chức. Rồi áp lực ra đi nữa. Kỳ thực ra là ông ấy phải ra khỏi miền Nam thưa cô. Thì tôi có nghe bà tổng thống Thiệu kể lại là thì thôi mẹ con mày đi đi, tao ở lại, tao mặc cái quần đùi.

Kể lại chuyện áp lực thì có những tài liệu đại sứ Martin mới tiết lộ, chúng tôi mới có ở trong cuốn sách này, thì cái áp lực ông phải ra đi cũng rất nặng nề, tại về phía Mỹ, cũng như phía Pháp, cũng như là tổng thống Hương mới lên, hay là tướng Dương Văn Minh, đều làm áp lực cho ông ấy phải ra đi, tại vì nếu ông ấy không ra đi thì mặt trận không chịu điều đình
Hà Giang: Cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã dành thì giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.

-Nguyễn Văn Thiệu Thứ năm, ngày 03 tháng sáu năm 2010

Bí mật chung quanh hồ sơ “Nixon-Thiệu”

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/06/100601_nixon_thieu_dossier.shtml

Xuân Hồng

BBCVietnamese.com

GS Nguyễn Tiến Hưng ra mắt cuốn ” Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” tại California

Tác giả cuốn sách mới về “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” nói với BBC rằng một trong những hồ sơ quan trọng liên quan cuộc chiến Việt Nam vẫn chưa được giải mật.

Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Bộ Trưởng Kế Hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, nhắc đến cái gọi là hồ sơ “Nixon-Thiệu” chứa các tài liệu và thư từ giữa Tòa Bạch Ốc và Dinh Độc Lập từ năm 1971.

Ông Hưng, người được chỉ định đi cầu viện vào giờ chót, nói rằng vào ngày 23 tháng Ba năm 1975, nói ông Thiệu có cho ông xem hồ sơ này trong đó có hai bức thư của TT Nixon mà ông đã yêu cầu TT Thiệu gởi cho người kế nhiệm của TT Nixon là TT Ford qua trung gian của Tướng Frederick Weyand, cựu Tư Lệnh Quân Đội Mỹ, lúc đó là Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ.

Trong cuốn sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” mới được xuất bản, GS Hưng nói “Điểm trớ trêu là thư của TT Nixon mà TT Ford không biết gì.”

Vào ngày 5 tháng Tư năm 1975, đích thân Tướng Weyand đã đưa cho TT Ford xem hai bức thư đó chỉ 5 phút trước khi TS Kissinger đến cùng họp. Ngày 30 tháng Tư, TS Hưng tiết lộ hai thư này trong một cuộc họp báo tại Khách sạn Mayflower ở Washington để đặt trách nhiệm bội ước và yêu cầu Hoa Kỳ đền bù lại bằng cách cứu vớt và cho định cư một triệu người Việt Nam.

Sau đó Quốc Hội Mỹ, theo GS Hưng, đã phản ứng “tại sao Hành Pháp Mỹ không cho Lập Pháp biết hồ sơ Nixon-Thiệu,” đặc biệt là các nghị sĩ chủ trương cắt viện trợ cho VNCH như Henry Jackson, Frank Church, Ted Kennedy, Mike Mansfield…

Ngay chủ tịch của Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Hoa Kỳ lúc đó là ông John Sparkman đã viết thư yêu cầu TT Ford cho xem hồ sơ “Nixon – Thiệu” nhưng TT Ford viện dẫn quyền đặc biệt của người đứng đầu hành pháp, đã từ chối. Rồi từ đó chính phủ Mỹ “đã ém nhẹm” toàn bộ hồ sơ này.

Năm 1978, ông Ronald Nesson, tùy viên báo chí của TT Ford, có viết một cuốn hồi ký trong đó ông tiết lộ rằng ông được lệnh cấp trên đi tìm hồ sơ “Nixon-Thiệu” trong Tòa Bạch Ốc, và tìm được vỏn vẹn chỉ có “bảy cái thư “.

GS Nguyễn Tiến Hưng nói có tổng cộng 27 văn thư trong hồ sơ này, nhiều hơn số thư mà ông Ronald Nesson đã tiết lộ trong cuốn hồi ký.

Theo GS Nguyễn Tiến Hưng, hầu như tất cả các hồ sơ về cuộc chiến Việt Nam nay đã được giải mật, trừ hồ sơ “Nixon-Thiệu” mà cho tới hôm nay vẫn còn nằm trong vòng bí mật.

Tại sao ông Thiệu không lên tiếng?

Tác giả Nguyễn Tiến Hưng không tin rằng người Mỹ đã bảo cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không được nói gì về liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ khi gia đình ông dọn sang Mỹ năm 1985 tới khi ông từ trần năm 2001. Là một người tâm sự thân tín của ông Thiệu trên bước đường sống lưu vong, GS Hưng nói rằng ” tôi không tin là khi dọn sang Mỹ, ông Thiệu đã bị áp lực nào bắt phải yên lặng vì đó là thời của tổng Thống Reagan và ông Reagan rất ưu ái Tổng Thống Thiệu. Có lẽ vì phần nào của sự ưu ái đó mà ông Thiệu dọn nhà sang Hoa Kỳ sống.”

Nghe/xem bằng Real Player hoặc Windows Media Player

Ông Thiệu đã tâm sự với ông Hưng rằng “khi vừa đến Đài Loan vào ngày 25 tháng Tư năm 1975, phái đoàn tùy tùng đã bị nhân viên Mỹ khám xét hết hành lý và tịch thu hết giấy tờ vì họ chỉ sợ hồ sơ Thiệu-Nixon lọt ra ngoài”.

Ông Hưng thuật tiếp lời ông Thiệu: “Còn chuyện cái cặp bị đánh cắp nữa, vì họ tưởng rằng hồ sơ để trong đó, chứ không phải là để lục xét tiền.”

Tuy nhiên, ông Hưng nói: “Phía ông Kissinger và đảng Cộng Hòa muốn giấu hồ sơ đó đi, cho nên có thể họ đã yêu cầu TT Thiệu giữ im lặng.”

Theo GS Hưng, ông Thiệu không muốn viết hồi ký vì “sau khi tôi làm lãnh đạo của miền nam gần 10 năm, tôi biết quá nhiều chuyện, và khi tôi nói cái hay thì tôi cũng phải nói cái dở nữa.”

Ông Thiệu được cho là đã nói: “Người Mỹ đã phản bội mình rồi, cho nên mình cũng không nên vạch áo cho người xem lưng, và tôi chẳng cần để ý tới dư luận Mỹ nữa.” Theo giáo sư Hưng đó là lý do chính tại sao ông Thiệu không muốn viết hồi ký.

Trước đây khi được GS Hưng yêu cầu nói rõ về vụ 16 tấn vàng, ông Thiệu nói: “Tôi đã làm hết sức mình rồi cho nên dù có nói ra, thì người đời sẽ nói rằng tôi cố tình chạy tội mà thôi.”

Tăng quân là để rút lui?

GS Nguyễn Tiến Hưng cho biết trong những lần đàm luận tại Luân Đôn, ông Nguyễn Văn Thiệu đã cho rằng Tổng Thống Mỹ Johnson, một người được cho là lập trường diều hâu, “đem quân vào Việt Nam là để thương lượng ở thế mạnh.”

Vào đầu năm 1964, khi ông Johnson lên thay cho TT Kennedy bị ám sát, chính phủ Mỹ đã cho bộ trưởng McNamara sang Việt Nam hứa đủ điều, rồi đề nghị 12 biện pháp rất mạnh trong đó, yêu cầu chính phủ Việt Nam đặt Miền Nam vào thế chiến tranh bằng một lệnh tổng động viên để “mưu cầu một nước Việt Nam không cộng sản”.

Sau đó, Mỹ tăng quân viện cho miền Nam Việt Nam và đồng thời mở ra các chiến dịch như là Mũi Tên Lên vào tháng Tám cùng năm, rồi đến chiến dịch Phi Tiêu Lửa oanh tạc miền Bắc rất dữ dội.

Đến tháng Ba năm 1965, quân đội Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng và bước tháng Tư, Tổng Thống Johnson tuyên bố sẽ ở lại miền Nam “bao nhiêu lâu còn cần thiết, với bất cứ sức mạnh nào còn cần thiết, với bất cứ nguy hiểm nào, phí tổn nào” như Tổng Thống Kennedy đã nói “We shall bear any burden” khi nhậm chức.

Tháng Sáu năm 1965, TT Johnson đã gởi vị tướng kinh nghiệm nhất của quân đội Mỹ là tướng Westmoreland đến Việt Nam để chỉ huy quân đội và một tháng sau, đã bổ nhiệm một vị tướng khác là Maxwell Taylor làm đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, ông Thiệu lên làm Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia vào tháng Sáu năm 1965.

Theo GS Hưng, ông Thiệu và các tướng lãnh đều thấy rằng Mỹ quyết chiến và quyết thắng tại miền nam Việt Nam.

Nhưng chẳng mấy chốc sau đó, Bộ Trưởng McNamara lại rỉ tai ông Thiệu và nói là phải tổ chức bầu cử tổng thống và bầu cử quốc hội cho sớm để còn điều đình với Mặt Trận giải Phóng Miền Nam.

Mãi sau này với thời gian, ông Thiệu mới chiêm nghiệm câu “đem quân vào để điều đình ở thế mạnh,” và “đem quân vào là để rút quân đi.”

Không kết quả

Trong số này, có bức thư của TT Johnson gởi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày Tám tháng Hai năm 1967 trong đó, Hoa Kỳ mong muốn đi đến một giải pháp hòa bình, nhưng không hiểu vì một lý do nào đó, các nỗ lực mưu tìm hòa bình không đi đến một kết quả nào.

Nghe/xem bằng Real Player hoặc Windows Media Player

Một tuần lễ sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp lại một bức thư nói rằng “nếu như Ngài muốn đàm phán trực tiếp với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, thì phía Hoa Kỳ phải ngưng ngay các vụ oanh tạc vô điều kiện”.

Hai bức thư này được lưu lại trong hồ sơ của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về cuộc chiến Việt Nam gồm tổng cộng 12 tập, cho thấy phía Hoa Kỳ từ năm 1965 đã 26 lần tìm cách bắt liên lạc với chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa qua nhiều ngả khác nhau để điều đình hòa bình.

Nay với thời gian, GS Hưng nói rằng có thể là vì một “vấn đề nhận thức” gây ra bởi các “tín hiệu trái ngược nhau” mà 26 lần tìm cách bắt liên lạc này, không đi đến một kết quả nào. Thí dụ như cũng có thể là Mỹ đề nghị điều đình ngày hôm trước thì hôm sau lại oanh kích Bắc Việt còn mạnh hơn hôm trước.

Theo GS, có thể vì các tín hiệu trái ngược nhau mà cuộc chiến cứ leo thang.

Cuộc chiến ‘ủy nhiệm’

Trước khi đắc cử tổng thống Mỹ, ông Nixon đã từng nói cuộc chiến tại Việt Nam không phải là cuộc chiến giữa hai miền nam bắc Việt Nam, hay là giữa Hoa Kỳ và Cộng Sản Việt Nam, mà thực sự ra là một cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Theo GS Hưng thì TS Kissinger và TT Nixon cho rằng tất cả những sự thành công của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã giúp cho chiến lược của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc.

GS Hưng nói rằng theo như sự suy nghĩ của hai người này thì “cũng vì sự cứng rắn của Hoa Kỳ – mang nửa triệu quân tới Việt Nam rồi xúc tiến chương trình Việt Nam hóa cuộc chiến – mà đã thuyết phục Trung Quốc mở cửa bang giao với Hoa Kỳ.”

-Nhận định của TT Nguyễn Văn Thiệu về cuộc chiến 1945-1975 tóm lược của Long Điền:

1-Cuộc chiến tại Miền Nam VN là một cuộc chiến tự vệ, do phiá CSBV chủ mưu  tấn công Miền Nam.Trả lời phỏng vấn của đài phát thanh BBC trước khi ký hiệp định ngưng bắn 1973, TTT  đã nói  :

“Tôi nghĩ rằng tự do và một cuộc sống tốt đẹp hơn của 17 triệu rưởi dân chúng ở miền Nam Việt Nam không những cho thế hệ này mà còn cho thế hệ mai sau. Tôi nghĩ rằng đó là cái giá mà dân chúng miền nam Việt Nam đã trả. Không một ai thích chiến tranh. Bản thân tôi cũng không thích chiến tranh. Có người nói với tôi rằng họ chống chiến tranh, và tôi cũng nói họ rằng tôi cũng chống chiến tranh”.

2- Ông tin tưởng vào Tự Do, Dân Chủ,vào chính nghiã Quốc Gia: “Tôi nghĩ rằng khi dân chúng tại miền Nam Việt Nam có thể tự do phát biểu một cách dân chủ mà không sợ bị cộng sản cắt cổ chặt đầu, thì tôi có thể bảo đảm với ông rằng toàn thể dân chúng ở miền Nam Việt Nam đều chọn tự do. [viii]

3-Qua quốc sách Chiêu Hồi do ông thực hiện và đạt thành công vẻ vang, ta thấy ông có tấm lòng nhân ái, không muốn nhìn thấy canh chiến tranh giết chóc gìửa người Việt với nhau,nên  đã dùng đường lối Chiêu Hồi mở 1 sinh lộ cho những cán binh Việt Cộng lầm đường lạc lối trở về với chính nghiả Quốc Gia chấm dứt cảnh nồi da xáo thịt.

4- Trong những ngày biến động trước 30 tháng tư 1975 dù có những âm mưu ám sát,đe dọa từ phiá Đồng Minh, đe dọa từ phiá các tướng lãnh đối lập, áp lực quân sự ngày càng gia tăng của CSVN nhưng ông Nguyễn Văn Thiệu vẫn bình tỉnh để phản công Cộng sản mặc dù ngân sách viện trợ của đồng minh suy giảm trầm trọng so với sự chi viện  ồ ạt từ phiá Cộng sản Quốc Tế. Ông đã giử đúng cương vị của một tổng thống, bảo vệ quyền lợi và thanh danh của Việt Nam Cộng Hoà ,sau cùng trong tình thế hiển nhiên không còn hy vọng gì cứu vớt VNCH thì ông mới chấp nhận ra đi chính thức [ix]sau khi bàn giao chức vụ cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương.

5-Đại đa số người dân Miền Nam, sau nầy qua các tài liệu giải mật của thế giới đã thông cảm những nỗi khó khăn, nguy nan mà ông phải gánh chịu trước một đất nước đã lầm khi hợp tác với một đồng minh phản trắc[x]. Ông không thể làm gì khác hơn,không có lựa chọn nào khác hơn. Số phận một nước nhược tiểu không thể tự mình đứng ra chống lại làn sóng đỏ của tập đoàn Cộng Sản Quốc Tế.


[i] http://ngothelinh.tripod.com/NguyenVanThieu_100days.html   Thân thế và sự nghiệp của cố TT Nguyễn Văn Thiệu   

[ii] http://ngothelinh.tripod.com/NguyenVanThieu_100days.html  Nhận định về TT Nguyễn Văn Thiệu

[iii] http://vuhuusan.110mb.com/haichien1.htm  Hải chiến Hoàng Sa 1

[iv] http://vietccsf.org/viet/index.php?option=com_fireboard&func=view&id=158&catid=12   Thảm Trạng Người Cày Không Ruộng
Distress Of Farmers Without Land. Dr. Tristan Nguyễn

[v] http://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3i_c%C3%A1ch_ru%E1%BB%99ng_%C4%91%E1%BA%A5t_%28Vi%E1%BB%87t_Nam_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a%29  C ải cach ruộng đất ở Miền Bắc .

http://vietccsf.org/viet/index.php?option=com_fireboard&func=view&id=158&catid=12  Th ảm tr ạng người cày không ruộng của bác sĩ Tristan Nguyễn

[vi] http://rand.org/pubs/reports/2006/R1172.pdf     quyển sách nói về Chính  sách Chiêu Hồi của VNCH từ 1963-1971  gồm 252 trang.

[vii] http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_V%C4%83n_Thi%E1%BB%87u  Tài liệu Bách khoa thế giới toàn thư  về Nguyễn Văn Thiệu

[viii]  http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/04/050422_nguyenvanthieu_transcripts.shtml  Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của BBC năm 1973.

[ix] http://www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=85&sub=85&id=33776  Tâm tư tổng thống Thiệu

[x] http://danchimviet.com/articles/1526/1/Vin-tr-quan-s-cho-Vit-Nam-trong-chin-tranh/Page1.html  Việt Nam Cộng Hoà cho biết đường xâm nhập của CSBV hiện rõ trên bản đồ nhưng miền Nam không đủ lực lượng để ngăn chặn, cũng có tin cho biết Hoa Kỳ ngăn cản không cho không quân VNCH đánh phá, họ đe doạ cắt viện trợ nếu không nghe theo. Một số nhà nghiên cứu, giới chức quân sự cho rằng viện trợ quân sự của Nga, Trung Cộng cho miền Bắc năm 1975 gấp 3 hoặc 4 lần năm 1972. Sự thực thì không phải như vậy, số lượng vũ khí đạn dược năm 1975 của CSBV nhiều gấp bội lần năm 1972.

47 năm “Thống Nhất” CSVN đã làm gì cho Tổ Quốc Việt Nam.

47 năm “Thống Nhất” CSVN đã làm gì cho Tổ Quốc Việt Nam.

Cuộc chiến Việt Nam 30 năm[i] (1945-1975) là một cuộc chiến mà thế giới đã công nhận là một cuộc chiến tàn khốc giữa hai khối người Việt khác ý thức hệ, kéo dài mang tổn thất sinh mạng và tài sản lớn nhất thế giới sau 2 cuộc Thế Chiến.[ii]
Cho tới nay, sau 47 năm kết thúc cuộc chiến đẫm máu giữa 2 miền Nam, Bắc Việt Nam mà mỗi bên đều có đồng minh yễm trợ vẫn chưa có thống nhứt lòng dân và chưa có thống nhứt tên gọi.
Một bên gọi là Cuộc chiến tự vệ của Miền Nam (MNVN), cuộc nội chiến Nam Bắc, chiến tranh ủy nhiệm giữa 2 khối ý thức hệ.
Một bên gọi là Cuộc chiến Giải Phóng, chiến tranh dành độc lập, chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Phía Quốc tế gọi là Chiến tranh Việt Nam (Việt Nam War), Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954) và lần thứ hai (1955-1975).

Xem miển phí trên trang web: http://www.namkyluctinh.com/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/long-dhien/cuoc-chien-viet-nam-1945-1975.html

Điểm lưu ý là trong cuộc chiến Đông Dương lần thú nhất 1946-1964 có sự tham dự của quân Viển Chinh Pháp và phía Quốc Gia Việt Nam, còn phía Việt Minh có sự tham dự của lực lượng Trung Hoa cộng sản. Năm 1989, Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhân gởi 320.000 quân qua tham chiến ở Việt Nam trong năm 1965-1968 và viện trợ Hà Nội 20 tỷ đô la. Liên Xô viện trợ 11 tỷ đô la. Đảng CSVN và Nhà Nước chỉ là bọn cõng rắn cắn gà nhà, là bọn mãi quốc cầu vinh; đảng CSVN đã mời TQ qua VN để chúng có cớ chiếm Hoàng Sa, Trường sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Móng Cái, Núi Lão Sơn… và nhiều đất đai biên giới phía bắc. 
Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã mời 320.000 quân Trung Cộng và một số lượng không rõ lính Bắc Triều Tiên, và Liên Xô đến Miền Bắc trong thời gian 1964-1975 để cùng nhau tấn công Miền Nam Việt Nam với khẩu hiệu “chống Mỹ diệt Ngụy”
Đánh Điện Biên Phủ thì đảng CSVN cầu viện quân đội Trung Cộng qua đánh giúp. Quân đội Trung Cộng và các tướng lãnh La Quý Ba, Trần Canh, đã giúp đánh trận Điện Biên Phủ 1954.
 
Qua đến cuộc Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975 (hay còn gọi là Cuộc Chiến Quốc-Cộng), Đảng CSVN và  HCM lại cầu viện ngoại quốc qua giúp đỡ đánh chiếm Miền Nam. Lần này, có quân Trung Cộng ( 320.000 quân) , quân Liên Xô (3000 quân), và quân lính Bắc Triều Tiên.
Về viện trợ : Trung Quốc viện trợ 20 tỷ Mỹ kim, Liên Xô viện trợ cho VN nhiều hơn TQ nhưng chưa bao giờ tiết lộ, gần đây chỉ nhắc đến 11,5 tỷ Mỹ kim [iii]. Riêng Liên Xô có hơn 3.000 quân Liên Xô tại Bắc Việt


Tổng số thiệt hại nhân mạng hai miền Nam, Bắc trong cuộc chiến Việt Nam 1945-1975 (do CSVN gây ra):

— Gần 2 triệu thường dân thiệt mạng (kể cả 2 miền Nam, Bắc)

– Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa:

  • ~310.000 tử trận hoặc mất tích.[17]
  • ~1.170.000 bị thương

-Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam:

  • 849.018 liệt sĩ (khoảng 1/3 chết bởi những nguyên nhân phi chiến đấu như bệnh tật, tai nạn, kiệt sức,…).[3]
  • Khoảng 550.000 – 600.000 bị thương.[4]

CSVN luôn hô to khẩu hiệu: Mỹ là quân xâm lược, nhưng suốt 8 năm kể từ ngày Mỹ có mặt tại MNVN 1965-1973 để ngăn chận làn song Đỏ thì Mỹ chưa chiếm 1 tấc đất của VN, nhưng TC đã từng tấn công 6 tĩnh phía Bắc VN (1979-1984) và hiện nay TC đã vẫn còn chiếm  2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Những sai lầm lịch sử gần một thế kỷ từ 1930 đến 2022 do HCM và đảng CSVN tạo ra mối oan khiên cho toàn dân Việt Nam bao gồm 3 giai đoạn như sau:
1-HCM sai lầm khi chọn chủ thuyết Cộng Sản hay còn gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) vào Việt Nam năm 1930 để chống bọn Thực dân Pháp đang cai trị dân VN. Trong khi đó nhiều quốc gia thuộc Chau Á chọn con đường Dân Chủ Đa Nguyên như: Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Nhật Bản, Nam Hàn, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ …. Họ đã dành được Độc Lâp và Tu65 Chủ từ bọn Thực Dân Anh, Pháp, Hòa Lan. Bỏi vì dung XHCN để giải phóng đất nước qua hình thức bạo động, chia để trị, gây nội chiến dai dẳng qua hình thức đấu tranh phân biệt giai cấp của XHCN thì sau khi có được Độc Lập thì lại vướng vào Chù Thuyết Cộng Sản và  Cộng Sản Quốc Tế Nga, Tàu còn tệ hại gấp 100 lần Thực Dân.
2-HCM và đảng CSVN sai lầm khi chấp nhận làm tay sai cho Trung Cộng thôn tính thế giới vì Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam trong suốt 4000 năm dựng nước. Trong lịch sử 4000 năm của quốc gia VN đã có hang chục lần Trung Quốc xâm lược Việt Nam. [iv]

 “ĐCSVN xóa bỏ nền văn hóa truyền thống và hủy diệt các di tích lịch sử và văn hóa

 Xóa bỏ văn hóa truyền thống.

Người Cộng sản chủ trương xây dựng nền văn hóa Mác-Xít Duy Vật để thay nền văn hóa duy tâm truyền thống của dân tộc Việt Nam được xây dựng gần 5,000 năm trên nền tảng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và đó cũng là nền tảng của mọi tôn giáo. Và hủy diệt luôn tất cả mọi cảm nghiệm tâm linh man mác sâu thẳm trong con người Việt Nam.

Học thuyết duy vật, mà Hồ chí Minh mang vào Việt Nam, nhằm thay con người Việt Nam thành con người xhcn vô gia đình, vô luân, vô đạo, vong bản, vô trách nhiệm, chỉ biết hận thù giai cấp. Vì thế mọi giá trị, biểu tượng thiêng liêng của đạo đức, và trí tuệ tột đỉnh của dân tộc Việt Nam bị coi là đối tượng nguy hiểm, là kẻ thù số một cần phải đào tận gốc trốc tận rễ.”[v]
3-HCM và đảng CSVN sai lầm khi tuân hành chỉ thị của TC thôn tính MNVN:

Bởi vì MNVN là một quốc gia độc lập có chủ quyền và được  77 quốc gia trên thế giới công nhận.
Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 10 năm 1955, với Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên.[1] Chính phủ này lập tức được Hoa Kỳ công nhận và lần lượt có quan hệ ngoại giao với 77 quốc gia.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a

1945-1975: Tính chính thống và chủ quyền quốc gia.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-45387576

  • Quốc Phương
  • BBC Tiếng Việt

2 tháng 9 2018.

Bản đồ phân chia 2 Miền Nam, Bắc Việt Nam.

Bởi vì CSVN sau khi theo lịnh của Nga, Tàu tấn công MNVN bằng mọi giá, thì sau chiến tranh giữa lúc CSVN còn đang kiệt quệ thì Trung Cộng đã huy động 600.000 quân sĩ tấn công Việt Nam!!!

Nhận định về CSVN của LS. Lê Duy San:

“Trong chiến tranh Việt Nam, bọn Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền rằng lính Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì chính Mỹ đã trả lương cho lính Việt Nam Cộng Hòa để đánh lại Quân Đội Nhân Dân của Hà Nội. Sự tuyên truyền này của Việt Cộng không phải chỉ có người dân quê ít học mới tin, mà ngay cả một số lớn sinh viên, trí thức cũng tin theo. Nhục nhất là ngay cả Nguyễn Cao Kỳ, một tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa, đã từng làm Chủ Tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương, một chức vụ như Thủ Tướng và Phó Tổng Thống thời đệ nhị VNCH cũng không ngượng miệng khi tuyên bố rằng quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.

Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. Gần đây, chúng ta lại thấy ở Việt Nam có một đền thờ to lớn thờ tên Việt Cộng Lê Duẩn mà trên cổng chính của đền thờ có khẩu hiệu như sau: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”

Vậy thì ai là linh đánh thuê ? Quân Đội VNCH hay Quân Đội Nhân Dân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ?

….Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH vì muốn giúp cho miền Nam VN đủ sức chống lại sự bành trướng của Cộng Sản và bảo vệ nền độc lập cùng lý tưởng tự do cho miền Nam Việt Nam.  VNCH không phải là thuộc địa của Hoa Kỳ vì thế nói quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Hoa Kỳ là hòan tòan không đúng. VNCH cũng không hề được Hoa Kỳ yêu cầu đem quân đội tới Hoa Kỳ để ổn định tình thế tại một khu vực nào tại Hoa Kỳ hay chiến đấu tại một nước nào thuộc quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. 

Vậy không thể nói quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ. Chỉ có bọn bọn Việt Cộng, bọn Việt Gian Cộng Sản và bọn người vô ý thức, trong đó có ông Nguyễn Cao Kỳ mới nói như vậy.

Trái lại, quân đội nhân dân của bọn Việt Cộng Hà Nội nghe theo quan thầy Liên Sô, Trung Cộng xâm chiếm miền Nam VN tức VNCH không phải là để bảo vệ lãnh thổ mà là để thi hành nghĩa vụ quốc tế của đảng Cộng Sản Nga Tầu. Chính Lê Duẩn, nguyên Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc” và “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại. Năm 1976 Lê Duẫn ngang nhiên áp đặt Chủ Nghĩa Cộng Sản lên đầu toàn dân VN, đổi tên đảng Lao Động (lừa bịp dân lúc trước vì dân không thích cộng sản) thành đảng csvn. Lê Duẩn nói “” Ta đã thành công trong việc cắm lá cờ Mac-Lê trên toàn cõi Việt Nam

Hơn nữa, năm 1974, Trung Cộng đánh chiếm Hòang Sa của Việt Nam, Hải quân VNCH đã anh dũng chống trả, nhưng bọn Việt Cộng Hà Nội cũng không hề lên tiếng phản đối.

Tóm lại, rõ ràng quân đội Nhân Dân của bọn Việt Cộng Hà Nội là lính đánh thuê cho Liên Xô, cho Trung Quốc đúng như lời Lê Duẩn, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói…..”[vi]
   
“Kết Qủa cuộc đi đêm này, Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 sq Km vùng vịnh cho Trung Quốc .”
https://haingoaiphiemdam.com/a33684/viet-cong-la-bon-linh-danh-thue-le-duy-san.


Cuộc chiến Việt Trung 6 tĩnh phía Bắc Việt Nam 1979:
Năm 1979 Trung Cộng xua 600.000 quân xâm lược Việt Nam để dạy cho VN một bài học. Đây là cuộc chiến giữa 2 đồng chí XHCN bôi mặt đá nhau. Mạng lưới tình báo CSVN hoàn toàn bị che khuất, CSVN hoàn toàn bị tấn công bất ngờ.

“Trung Quốc là thế lực chủ yếu hậu thuẫn chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong các cuộc chiến chống lại Pháp, và sau này là Mỹ, và chế độ Việt Nam Cộng Hòa do Mỹ hậu thuẫn, tuy nhiên quan hệ giữa hai nước xuống dốc nhanh chóng kể từ những năm 1970. Bắc Kinh thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, trong lúc Việt Nam vẫn gắn bó với khối Liên Xô. Sau khi Việt Nam lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, được Trung Quốc hậu thuẫn, Bắc Kinh tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới năm 1979, mà Trung Quốc gọi là để dạy cho « tiểu bá » Việt Nam một bài học. Trong bản Hiến pháp năm 1980, chế độ cộng sản Việt Nam đã gọi quốc gia đàn anh « môi hở răng lạnh » trước đây là « bá quyền Trung Quốc xâm lược », « kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm hiểm nhất ».  [vii]
 

Thực tế đây là một cuộc xâm lược của kẻ Bá Quyền Trung Cộng, nói lên tình đồng chí anh em XHCN chỉ là ảo tưởng. Vì chính CSVN cũng không ngờ Trung Cộng lại bội ước trước Chủ Nghĩa Quốc Tế Cộng Sản, đã từng là đồng chí anh em hợp tác xâm lăng Miền Nam Việt Nam 1954-1975.
Sau cuộc chiến xâm lược đẫm máu tại 6 tỉnh biên giói phía Bắc Việt Nam 1979, Trung Cộng dã tiếp tục mở nhiều cuộc xâm lược khác như Cuộc Chiến Vị Xuyên 1984-1989, Cuộc xâm lăng  đảo Gạc Ma 1988 nhưng sua cùng CSVN lại chọn thái độ thương thuyết đầu hang Trung Cộng 1989 tại Thành Đô giữa Trung Cộng và Việt Cộng.

Tháng 8-2014 người viết bài nầy đã Cộng tác cùng Khối 8406 trong nước và Phong Trào Dân Chủ Việt Nam tổ chức một cưộc hội luân trên You Tube dài 2 giờ 3 phút  do Cố chiến hữu Lạc Việt tại Canada làm diễn giả điều hợp:

Diễn Ðàn Yểm Trợ Khối 8406 & Phong Trào Dân Chủ Việt Nam

Hội Nghị Bán Nước Thành Đô và các hệ lụy do nó gây ra.

Lý do tại sao gần đây trên khắp nước Việt Nam và trong cộng đồng Người Việt Hải Ngoại bàn tán xôn xao về Hội Nghị Thành Đô (HNTĐ). Đây là một Hội Nghị tối cao giữa hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc nhóm họp tại Thành Đô thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Bên phía CSVN gồm có: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thủ tướng Đỗ Mười, cố vấn chính phủ Phạm Văn Đồng. Tháp tùng có Hồng Hà – Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn – Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.

Phía Trung Quốc gồm có: Giang Trạch Dân, Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

                   Thành phần chính thức hai đảng CSVN v à CSTQ tham dự HNTĐ 1990 :

Hội nghị diễn ra tại khách sạn Kim Ngưu, trong hai ngày 3 v à 4 tháng 9 năm 1990. Nội dung chính trong cuộc hội nghị là vấn đề giải quyết chính trị xung đột Campuchia và vấn đề khôi phục bình thường quan hệ Trung – Việt

Thắc mắc chung  của người Việt toàn thế giới hiện nay là  HNTĐ  do ai chủ mưu, hai nước Việt Trung đã ký kết những gì, tác hại ra sao, tại sao phải công khai HNTĐ, tại sao muốn thoát HNTĐ thì phải Thoát Cộng trước và Thoát Trung sau.

ITình hình Việt Nam từ trước khi xảy ra Bước Ngoặt Lịch Sử   “Hội Nghị Thành Đô” (HNTĐ)gồm 2 ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 :

Trước khi đi vào HNTĐ 1990 chúng ta đi lùi lại thời điểm lịch sử 1975 ngay sau khi Cộng Sản Việt Nam cưởng chiếm được Miền Nam Việt Nam (MNVN) do sự phản bội của chính phủ Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh MNVN.


a-Thời kỳ cầm quyền tuyệt đối của Lê Duẩn :

TBT/CSVN Lê Duẩn

 Kể từ ngày 30 tháng Tư năm 1975, với chiến thắng quân sự và cưởng chiếm được Miền Nam. CSVN trên đà chiến thắng, tính kiêu binh và đặt mục tiêu quyền lợi của đảng CSVN lên trên quyền lợi của đất nước. Sự ngông cuồng của kẻ chiến thắng được  nhắc đến qua câu tuyên bố bạt mạng của Lê Duẩn năm 1975:” Chúng ta sẽ đuổi kịp Nhật trong 15, 20 năm và nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng”. [i]

CSVN đã phạm nhiều sai lầm liên tục, mặc dù Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã đích thân đi thăm 6 tỉnh phiá Nam sau biến cố  30 tháng Tư  3 tuần (tháng 5.1975) và chính Duẩn phát biểu trong Hội Nghị Trung Ương lần thứ 24 tại Saì Gòn như sau:

Tại sao chúng nó là tư bản, chúng nó bóc lột người ta dữ, mà năng suất của nó vẫn cao. Vì nó là tư bản nhưng nó đi theo quy luật của nó, nó bóc lột nhưng mà vẫn tiến lên… Bây giờ nông dân ở miền Nam họ làm rất khá, mà nông dân thì phần nào hoá tư sản rồi”.[ii]

Tại sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời làm sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh lại không được bằng trong kia, anh trả lời làm sao? Đảng ta phải có trách nhiệm về những điều sai như vậy. Có thể vì chiến tranh, vì nhiều thứ, tôi đồng tình như vậy, nhưng trong đó cũng có khuyết điểm của mình chứ không phải không có khuyết điểm đâu

Miền Bắc trước đây phải hợp tác hoá ngay lập tức… Nhưng miền Nam bây giờ không thể làm như vậy. Miền Nam bây giờ phải để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, phải cho nó phát triển phần nào đã. Phải để kinh tế gồm mấy thành phần thì nông dân mới theo ta, liên minh mới chặt chẽ. Bắt hợp tác hoá là không đúng, năng suất thấp xuống thì hỏng hết cả, họ sẽ không theo giai cấp vô sản nữa, không thống nhất được đâu. Người nông dân làm ra những sản phẩm, người ta muốn bán, nếu chúng ta không cho bán thì nông dân chọi lại với chúng ta, nguy hiểm lắm, không thể được. Nếu chúng ta không có một hình thức kinh tế để kéo nông dân đi tới thì ta không thống nhất được. Vì vậy Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này.” Ngưng trích.

Thời điểm nầy, người dân và người lính hai miền Nam, Bắc 95% đã chán ngán chiến tranh, họ chỉ mong Hoà Hợp Hoà Giải để Nam Bắc chung sống một nhà, tái thiết quê hương tan nát sau 30 năm chiến tranh. Nhưng Lê Duẩn và đồng bọn CSVN đã phản bội ước nguyện chính đáng của toàn dân, mà chỉ phục vụ cho quyền lợi của thiểu số đảng viên trong Bộ Chính Trị mà thôi.

Nhiều người thắc mắc, tại sao, Lê Duẩn là Tổng Bí Thư đầy quyền lực trong tay, còn hơn cả Hồ Chí Minh trước kia khi còn sống, mà những nhận định đúng đắn của Lê Duẩn không được áp dụng, đó là một nỗi bất hạnh của Việt Nam, bởi vì tuy nói như thế nhưng Lê Duẩn không dám làm một điều gì trái ý với bọn công thần trong Bộ Chính Trị, đi lệch là cuộc đời Lê Duẩn cũng sẽ ra tro. Ghê gớm thay quyền lực đen, ngấm ngầm trong BCT, BCH/TW Đảng.

b-Nguyên nhân xảy ra Hội Nghị Thành Đô:

Do đó từ sau 1975, Lê Duẩn và đồng bọn trong BCT luôn áp dụng những bộ luật sắt máu, những hành động trả thù và vơ vét  đối với người dân Miền Nam Việt Nam (MNVN) để từ đó bọn chúng được chia chác với nhau những gì chúng “Cướp được” .
Từ chỗ cướp của cải, tài sản của toàn dân, kế đến bọn chóp bu CSVN  chứng kiến đươc trên truyền hình Châu Âu năm 1989 cảnh xử tử 2 vợ chồng Ceausescu do họ có nợ máu với dân Romania [iii].   Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Romania v.v…làm họ hoảng sợ.[iv] Có thể gọi cho đúng hơn đó là cuộc “Hoảng Loạn” chưa từng có trong lịch sử hình thành đảng Cộng Sản tại Việt Nam.


c-Giải Pháp Đỏ và thời kỳ trị vì của TBT Nguyễn Văn Linh :

TBT/CSVN Nguyễn Văn Linh

Sư ra đi của Lê Duẩn trong chức vụ Tổng Bí Thư và mất sau đó  tháng 7 năm 1986 (kẻ được mệnh danh là thù ghét Trung Cộng) [v] được đánh dấu là thời kỳ thuận lợi, là bước ngoặt lịch sử giúp cho tân Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và thủ tướng Đỗ Mười mạnh dạn bắt tay với Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam chỉ với một mục đích duy nhất “Còn đảng ,còn mình” bỏ mặc quyền lợi Dân Tộc. Cuộc liên minh ma, quỷ nầy có công bằng hay chỉ là hình thức chủ, tớ. Xin xem thái độ của người dân Việt Nam lúc đó ra sao?  

 Trước những biến động tại Đông Âu và Liện Xô, toàn dân Việt Nam thảy đều vui mừng vì họ mong có ngày dẹp đám tay sai của Cộng Sản Quốc Tế để trở lại chế độ Dân Chủ Tự Do. Những cuộc bùng nổ cách mạng âm ĩ trong Nam, ngoài Bắc làm cho bọn chúng lo sợ cho của cải tài sản vừa cướp được làm sao tẩu tán đi đâu (khác với hiện nay bọn chúng đã tuồn rất nhiều tài sản vào các ngân hàng Thụy Sĩ, Châu Âu và nhiều quốc gia khác) nên biện pháp khấu đầu thần phục Trung Cộng giải quyết một lúc nhiều vấn đề: vừa bão vệ được chế độ độc tài, vừa bão vệ được tài sản, vừa không phải lo bị thanh trừng do Cách Mạng Dân Chủ bùng nổ, chỉ cần toả mản một số điều kiện của quan thầy Trung Cộng là không lo về mặt quốc phòng vì theo chúng nghĩ dù có bành trướng cở nào thì TC cũng là một quốc gia cùng phe XHCN, cho nên bọn CSVN thà để mất nước hơn là mất đảng. Trên thế giới lúc ấy chỉ còn Trung Quốc là cái phao để cứu đảng CSVN, vì thế Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và đồng bọn đã dễ dàng quỳ mọp trước Bắc Kinh xin xí xoá lỗi lầm cũ và hợp tác để sống còn. Bọn bá quyền Bắc Kinh được dịp may hiếm có, tìm mọi cách đòi hỏi tối đa, CSVN chỉ còn nước khấu đầu quy thuận. CSVN thề quyết quên hết thù xưa và mật ước Thành Đô  đã được ký kết và toàn dân Việt Nam không một ai được biết đến!!!

 Bọn CSVN dễ dàng quên đi các cuộc tàn sát không gớm tay của Trung Cộng năm 1979 khi tấn công 6 tỉnh miền Bắc nước ta gây tổng số  thiệt hại nhân mạng trên 60.000 dân quân[vi]. Dã man nhất là những vụ tàn sát hang ngàn phụ nữ và trẻ em trên đường lánh nạn. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn v.v….

Bia đá tường niệm đồng bào bị TC thảnm sát.

Hình ảnh đồng bào bị quân Trung Cộng thảm sát, bệnh viện bị phá nát.

Bộ Chính Trị CSVN cũng mau quên các tội ác của Trung Cộng khi chúng tấn công các tỉnh biên giới Lạng Sơn và Hà Giang.Từ năm 1984 đến 1987 Trung Quốc  đã tung 6 sư đoàn tấn công CSVN tại các tỉnh Lạng Sơn,Hà Giang bằng nhiều đợt khác nhau. Gây thiệt hại hang ngàn thường dân và gần 10.000 bộ đội CSVN. Điển hình là trận Lảo Sơn (Núi Đất) từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1984.[vii] Các tài liệu đều nói trận đánh bắt đầu từ sáng sớm và kéo dài tới 17 tiếng đồng hồ. Dù rất ngoan cường nhưng phía Việt Nam đã phải rút lui, để lại 3.700 xác tử sỹ tại chiến trường. Thông tin trong cuốn ‘Bí mật về cuộc chiến Trung-Việt’ còn nói hai hôm sau đó, tức 14/07/1984, phía Trung Quốc tiêu diệt thêm 60 lính Việt Nam sang thu gom xác liệt sỹ.Tất cả các xác binh sỹ Việt Nam sau đó được lính binh chủng hóa học của Trung Quốc hỏa thiêu bằng ống phun lửa.

Chúng cũng mau quên trận tấn công Trường Sa đẩm máu 19.03. 1988 cách đó 2 năm với 3 chiến hạm vận tải  CSVN bị chìm và 64 chiến sĩ thủy quân thiệt mạng.[viii]phiá Trung Quốc hoàn toàn vô sự vì lính Thủy Quân VN không được lịnh nổ súng để tự vệ. Toàn bộ nhóm đảo Trường Sa đến nay vẫn do Trung Cộng chiếm đóng.

“…Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức về những cuộc chiến này. Đảng CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam…”[ix]

Hơn 1.500 người dân vô tội thiệt mạng

Trong tham luận tại hội thảo khoa học “Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc – 40 năm nhìn lại” diễn ra ở Hà Nội hôm 15-2-2019, ông Đinh Ngọc Viễn – nguyên cán bộ Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Cao Bằng – đưa ra con số hơn 1.500 người dân vô tội ở Cao Bằng bị giết hại khi quân bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới.

Ngoài ra, Cao Bằng còn gánh chịu nhiều thiệt hại khác với 50 xã bị phá hoại, 40/49 nông – lâm trường bị tàn phá, 12/12 bệnh viện, 48/140 bệnh xá, trạm y tế bị phá hoại hoàn toàn…

https://basam.vet/2020/07/02/822-nghia-tan-voi-dong-bao-bi-quan-trung-quoc-tham-sat-o-tong-chup-cao-bang/
Những trận đánh trên vùng biên giới Việt Trung và Trường Sa trên biển thảy đều bị CSVN dấu nhẹm, gần như toàn dân thảy đều bị bịt kín thong tin, nhưng những thiệt hại nhân sự và tài sản thì rất lớn, gây cho CSVN tâm trạng bất an, cộng với tình hình phe cộng sản Quốc Tế liên tiếp sụp đổ tại Đông Âu từ năm 1989 đến năm 1990 làm cho Bộ Chính Trị CSVN hoảng loạn. Do đó TBT Nguyễn Văn Linh phải đề ra “Giải Pháp Đỏ” không chỉ là lôi kéo Trung Cộng hợp tác mà là cúi đầu tuân phục Trung Quốc để mong ngưng cuộc chiến biên giới và cùng bắt tay chống Tư Bản. Vì hèn nhát trước kẻ thù TC, CSVN bắt tay cầu hòa với quân xâm lược qua Hội Nghị bán nước Thành Đô.

Toàn dân thì hoàn toàn không biết gì về HNTĐ, trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Uơng đảng thì có kẻ biết người không, nhưng đại đa số thảy đều hèn nhát im lặng, một số can đảm hơn thì than vản và viết hồi ký như: 

d- Lời thú nhận đắng cay của Nguyễn Cơ Thạch Bộ Trưởng Ngoại Giao CSVN:

BT Ngoại giao  Nguyễn Cơ Thạch

Khởi đầu từ HNTĐ 1990 đất nước Việt Nam đã đi đến bước ngoặc bi thương, chính quyền thì như bù nhìn bỏ mặc cho bá quyền Trung Cộng làm mưa làm gió trên giang san Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch là một nhà ngoại giao kỳ cựu, khôn ngoan và hèn nhát , Thạchkhông dám thố lộ cùng ai về HNTĐ mà hắn biết,  không dám viết hồi ký, không dám  lạm bàn đến HNTĐ  nhưng sau đó chính Thạch cũng đã thổ lộ đắng cay:  “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự.[x]

e-Hồi ký đau thương của thứ trưởng ngoại giao Trần Quang Cơ:

Thứ trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ


Hội Nghị Thành Đô diễn ra năm 1990, mãi 14 năm sau tức 2004 Trần Quang Cơ, thứ trưởng Ngoại Giao CSVN mới đưa tập hồi ký 82 trang khổ A4 cho thân hữu xem, chưa dám xuất bản công khai. Nội dung hồi ký không có chi tiết cụ thể những ký kết giữa 2 bên Việt Trung. Ghi chép diển tiến hội nghị, các thủ đoạn của phía Trung Quốc nhằm đánh lừa CSVN. Trong khi đó CSVN nôn nóng thực hiện “Giải Pháp Đỏ” do Nguyễn Văn Linh đề xướng. Mong mỏi của CSVN lúc ấy là làm sao lôi kéo Trung Quốc thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vững chải bảo vệ XHCN. Trước tình hình Khối Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, Liên Xô điêu đứng và phe tư bản sẽ xoá sổ các nước XHCN còn lại. Ngược lại phía Trung Quốc hoàn toàn không có ý định làm chỗ dưa cho phe XHCN còn lại, mà là đang vuốt ve Mỹ giúp hiện đại hóa đất nước và quân đội Trung Quốc trở nên hùng cường khả dĩ chống lại được áp lực Liên Xô. Biết được nổi lo sợ sụp đổ chế độ của CSVN, Trung Cộng thúc ép CSVN phải giải quyết cuộc chiến tại Campuchia theo quan điểm của TQ đồng thời làm cho phe Campuchia Dân Chủ hiểu lầm không còn hợp tác với CSVN mà nghiêng về TQ và gây chia rẽ nội bộ  CSVN để làm suy yếu và thôn tính VN khi tình hình cho phép. Đến giờ nầy chưa ai bên phía CSVN đưa ra  văn bản chính thức các cam kết trong và sau HNTĐ gồm có những gì, nhưng phía Trung Quốc đã tung tin trên Hoàn Cầu Thời Báo là  “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Tin của Tân hoa xã Trung Quốc và báo Hoàn cầu Thời báo) [xi]

 f-Sự uất nghẹn của cựu Đại Sứ VN tại Trung Quốc, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và 60 đảng viên lảo thành:

   TT Nguyễn Trọng Vĩnh             TT Lê Duy Mật           Giáo sư toán Hoàng Tụy

“Hơn 60 Đảng viên Cộng sản lão thành vừa gửi thư ngỏ lên Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi từ bỏ con đường xây dựng XHCN và thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc.[xii]

Bức thư mà BBC có trong tay đề ngày 28/7/2014 với 61 chữ ký của nhiều nhân vật hoạt động lâu năm và có tiếng ở Việt Nam như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Thứ trưởng Chu Hảo, các kinh tế gia Lê Đăng Doanh và Phạm Chi Lan… được gửi tới Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nội dung thư bắt đầu bằng nhận định rằng từ nhiều năm nay, Đảng CSVN đã “dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin”.

“Công cuộc đổi mới gần ba mươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc.”

Đường lối chính sách của Đảng và nạn tham nhũng, theo các tác giả bức thư, đã “đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh”.

Thư nhắc tới Hội nghị Thành Đô năm 1990, mà nhiều người cho là mốc dấu cho một giai đoạn Việt Nam bị lệ thuộc về chính trị-kinh tế vào Trung Quốc.

Từ đó tới nay, “Việt Nam đã có nhiều nhân nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới”.

Theo các Đảng viên chấp bút thư, thực trạng yếu kém của Việt Nam phơi bày sự bất cập “cả về trách nhiệm và năng lực của lãnh đạo Đảng và nhà nước trong thời gian qua”.

 Những người này cũng thừa nhận rằng toàn thể Đảng CSVN, trong đó có bản thân họ, phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về tình hình nói trên nhưng phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.

Bức thư nêu ra một số yêu cầu chính, mà trước tiên là Đảng CSVN cần thay đổi Cương lĩnh và “từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa”.

Chỉ có hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ mới có thể mở ra thời kỳ mới phát triển cho Việt Nam, theo nhận định trong thư. Họ cũng kêu gọi quyết tâm thoát khỏi tình trạng lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc”. Các tác giả kêu gọi lãnh đạo Đảng CSVN và nhà nước “thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc.

….Họ yêu cầu minh bạch hóa sự thật về quan hệ Việt – Trung và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế …

Lá thư cũng khuyến cáo nhanh chóng kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về tình hình tranh chấp căng thẳng trên Biển Đông. Quan điểm ‘không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba’ là tự trói buộc mình, không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi.” Ngưng trích.

Nhưng 61 đảng viên lảo thành dù có tấm lòng yêu nước theo cách suy nghĩ riêng của họ, nhưng họ quên một điều căn bản do đâu mà có hiện trạng nô lệ với Trung Cộng, do đâu mà có nạn tham nhũng tràn lan, do đâu mà có nạn đàn áp dân oan, do đâu mà có tình hình kinh tế sa sút trầm trọng, do đâu mà các khu chợ người Hoa mọc lên như nấm tại nhiều vùng của VN. Đó không chỉ là “Thoát Trung” mà phải “Thoát Cộng”là cội nguồn mọi yếu kém, kềm hảm đất nước Việt Nam trước tiến trình “Toàn Cầu Hoá Dân Chủ”.

II-Những  hệ lụy sau khi ký kết Hội Nghị Thành Đô:

Sau năm 1990 ký kết HNTĐ năm 2000 CSVN đã ký kết với Trung Quốc nhiều hiệp ước tiếp theo mà phần thiệt hại luôn về phiá Việt Nam. Vì thế trong dư luận có sự bất bình, không tán thành hiệp định vì cho rằng chính phủ Việt Nam đã nhượng bộ cho Trung Quốc quá nhiều:

“Về phương pháp phân chia trong Vịnh Bắc Việt thì đây là một phương pháp phân chia hoàn toàn bất bình đẳng mà Việt Nam bị thiệt hại rất nhiều mặt.”[xiii]

Ông Trương Nhân Tuấn

 Ông Trương Nhân Tuấn: Về phương pháp phân chia trong Vịnh Bắc Việt thì đây là một phương pháp phân chia hoàn toàn bất bình đẳng mà Việt Nam bị thiệt hại rất nhiều mặt. Theo lời nói của ông Phụng thì Vịnh Bắc Việt được phân chia theo tinh thần Luật Biển 1982 và tập quán quốc tế, nhưng mà theo tôi thì hoàn toàn không có đúng như ông Phụng nói; Và tôi nghĩ vì không tôn trọng Luật Biển 1982 cũng như là tập quán quốc tế khi mà phân định lãnh hải cho nên mới gây thiệt hại cho phía Việt Nam. Đặc biệt là việc bỏ qua lãnh hải các đảo Bạch Long Vỹ hay là đảo Cồn Cỏ trong Vịnh Bắc Việt nên tạo ra một tiền lệ rất là bất lợi cho phía Việt Nam.
Vũng Ăng Ca thuộc về Việt Nam?

Ông Trương Nhân Tuấn: Cái vũng này được xác định bởi các giới điểm 13, 14, 15 ,16 tức là vùng nước ở giữa vịnh là nơi mà các chuyên gia quốc tế họ công nhận có tiềm năng dầu khí quan trọng (xem bản đồ tại http://www.ykien.net/bnbandovbb.html).

Thì cái Vũng Ăng Ca là nó nằm ở giữa vịnh, nếu trường hợp mà chia theo Công Ước Pháp-Thanh 1887 thì vũng đó là hoàn toàn của Việt Nam.Nếu mà phân chia theo Luật Biển 1982 thì Vũng Ăng Ca đó cũng thuộc về Việt Nam luôn. Nhưng theo hiệp ước mới thì vũng này thuộc về Trung Quốc.

Ông Trương Nhân Tuấn

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Interview-scholar-truong-nhan-tuan-on-the-sino-vietnamese-issue-part2-nan-11302008144044.html

Vụ Trung Cộng ngang nhiên xâm phạm lãnh hải Việt Nam qua giàn khoan Hải Dương 981:

“Thảm trạng không dám “thoát Cộng” rồi bây giờ không dám “thoát Trung” sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 tự do đến ngày 02/05 (2014) rồi thanh thản ra đi khỏi vùng biển Việt Nam ngày 15/07 (2014) đã cho ta thấy rõ cái não trạng sợ hãi và ươn hèn của đảng CSVN đối với nhiệm vụ bảo quyền lợi của dân và của nước bi thiết đến nhường bao ?

  
              Giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Cộng               

Khi đảng đổi hướng, cờ Tàu thêm một ngôi sao nhỏ – ngôi sao nô lệ.

(vie                  

o.eu)

Một thái độ “im hơi lặng tiếng” đến lạnh người của đảng và nhà nước CSVN từ sau khi gìan khoan HD 981 rút về phía nam đảo Hải Nam (Trung Cộng) dường như đã phản ảnh sự hài lòng tự mãn của lãnh đạo vừa ra khỏi cơn ác mộng.

Cũng từ khi gìan khoan rút đi, không còn thấy Việt Nam bắn tiếng “đã chuẩn bị sẵn hồ sơ đấu tranh pháp lý” với Trung Quốc nữa.”[xiv]

Sau đây là hàng loạt các áp đặt nghịch lý của Trung Cộng đối với Việt Nam gây ra sự bất mản Trung Quốc gia tăng khắp thế giới  và nhiều cuộc biểu tình đốt phá các công ty Trung Quốc diễn ra nhiều nơi tại Việt Nam.

Theo thống kê quốc tế trên trang mạng qianzhan.com Trung Quốc ngày 17 tháng 7 có bài viết dẫn các nguồn tin cho rằng, một cuộc khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew tiến hành ở 11 nước châu Á cho biết, có khoảng một nửa người được hỏi có thiện cảm với Trung Quốc, nhưng, rất nhiều người được hỏi lo ngại về tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với nước mình (thực ra chủ yếu là Trung Quốc nhảy vào tranh chấp và xâm lược), lo ngại xảy ra xung đột quân sự.

93% người Philippines, 85% người Nhật Bản, 84% người Việt Nam, 83% người Hàn Quốc lo ngại về xung đột quân sự với Trung Quốc.[xv]Ngưng trích

Số người dân Việt Nam phản đối Trung Quốc gia tăng nhưng tỷ lệ nghịch với chính phủ CSVN ngày càng ve vuốt quỵ lụy với Trung Cộng. Đó là một nghịch lý cần phải được giải quyết vì nhà cầm quyền CSVN đi ngược lại với nguyện vọng toàn dân Việt.

Những nghịch lý đó là:

-Những công trình xây dựng do Trung Quốc luôn trúng thầu và xây dựng cẩu thả kém phẩm chất. 

-Những khu phố người Hoa hiện diện nhiều nơi trên đất nước Việt Nam như chỗ không người

-Những khu rừng đầu nguồn cho thuê dài hạn.

-Khu công ngiệp Bauxit Tây Nguyên do Trung Quốc quản lý  gây ô nhiểm trầm trọng.

h- Biện pháp giải quyết dứt điểm:

Muốn “Thoát Cộng” và “Thoát Trung”một cách trọn vẹn và có hiệu quả là phải do toàn dân Việt Nam quyết định. Mọi sự vận động từ Người Việt Hải Ngoại và của quốc tế chỉ có tính cách hỗ trợ, nổ lực chính là do Toàn Dân Việt định đoạt. Trong phía Quốc Tế, vai trò của Hoa Kỳ là chính yếu, do đó vận động quốc tế Giải Thể chế độ cần phải vận động người dân, lưởng viện Quốc Hội,các hiệp hội Dân Sự tại Hoa Kỳ là cần thiết và quan trọng.

Người Việt Hải Ngoại toàn thế giới cần phải tham gia nhiều hơn nữa vào vòng chính. Sự có mặt đông đảo trên chính trường, nhất là trong nghành Lập Pháp và Hành Pháp tại các quốc gia trên toàn thế giới hưởng ứng thì mới mang lại kết quả mong muốn. 

Tiến trình Giải Thể chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cần có sự tiếp tay của mọi thành phần xã hội, trong đó đảng viên các cấp trong đảng CSVN, công an, bộ đội và công chức CSVN cũng phải được chú trọng vận động đúng mức.

 Toàn dân Việt Nam quyết định vận mệnh đất nước vào thời điểm lịch sử nầy đánh dấu một trang sử Mới cho Quê Hương và Dân Tộc Việt Nam.

Long Điền

21 tháng 12.2022


[i][i]

Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?  
Giáo sư Lê Xuân Khoa https://www.bbc.com/vietnamese/regionalnews/story/2005/02/050215_lexuankhoa

[ii][ii]Nhớ lại và Suy ngẫm từ mấy câu chuyện sau 30-4-1975 Đào Công Tiến.
http://www.viet-studies.net/kinhte/DaoCongTien_NhoLaiSuyNgam.htm

[iii]Năm 1989, Trung Quốc lần đầu tiên thừa nhân gởi 320.000 quân qua tham chiến ở Việt Nam trong năm 1965-1968

https://nguoilinhvanconday.blogspot.com/2014/02/nam-1989-trung-quoc-lan-au-tien-thua_13.html

[iv] NGUYỄN HƯNG QUỐC

Ai là kẻ thù của Việt Nam?
https://www.voatiengviet.com/a/ai-la-ke-thu-cua-vietnam/2694184.html

 Kẻ thù dân tộc

 Đàn Chim Việt

 –

19/02/202

[v] TẠI SAO GIẶC HỒ VÀ ĐỒNG ĐẢNG TRIỆT PHÁ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC.

Giặc Tầu đô hộ nước ta một ngàn năm không ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước. Giặc pháp đô hộ Việt Nam một trăm năm, dân Việt Nam vẫn là Việt Nam. Giặc Hồ mang học thuyết cộng sản vào cai trị nước ta mới có 60 năm dân bị lẫn lộn căn cước và vong thân. Xã hội Việt Nam từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời nào suy đốn như thời Hồ.

https://www.geocities.ws/xoathantuong/tn_ghtpdsvhdt.htm

[vi] VIỆT CỘNG LÀ BỌN LÍNH ĐÁNH THUÊ – Lê Duy San

Thứ Ba, 25 Tháng Tám 20204:00 CH

https://haingoaiphiemdam.com/a33684/viet-cong-la-bon-linh-danh-thue-le-duy-san

[vii]Vì sao sách giáo khoa Việt Nam vẫn ‘‘né tránh’’ cuộc chiến biên giới với Trung Quốc ?

https://www.rfi.fr/vi/vi%E1%BB%87t-nam/20220218-vi-sao-sach-giao-khoa-vietnam-ne-tranh-cuoc-chien-bien-gioi-voi-tq

Vietnam War 1945-1975 by Long Dien. From page 17-29

Chapter II: A-The National side’s assessment of the Vietnam war.1- Emperor Bao Dai (pages 17-29)      1- Emperor Bao Dai :     Emperor Bao Dai 1913-…

Vietnam War 1945-1975 by Long Dien. From page 17-29

Assessment of the domestic and overseas struggles after 33 years of separation our Nation.

Assessment of the domestic and overseas struggles after 33 years of separation our Nation

 Wednesday, January 27, 2021 (translate by Google)Nhận Định Tình Hình Quốc Nội và Hải Ngoại sau 33 năm ly hương.
The NATIONAL, The Honor and The RESPONSIBILITY.  

The Nation is in danger of volunteering to
restore honor and pay the people
Everyone is RESPONSIBLE to shoulder
Democracy, Freedom to achieve!

Assessment of the domestic
and overseas struggles
after 33 years of separation our Nation.
In the fight for Free Democracy there are 2 components: Domestic and Overseas.

-The Homeland is the main force directly facing the enemy of Freedom and Democracy, which is the communist communist party. Foreign forces maintain the support. Spiritual and material support for the Homeland.




The spiritual support of Hai Ngoai includes:

-Exchanging and disseminating information and historical documents for people, especially young people and domestic students, so that they can fully understand the nature of selling the homeland and harming the people of the episode. The Vietnamese Communist delegation allowed the entire people to stand up and overthrow the tyranny as the revolutions in Eastern Europe were successful in the 1990s and past.

– Mobilized through media, contacted with Jewish countries to create support for the domestic struggle movement.

– Mobilization in all forms on temporary countries, especially the politicians, congressmen and lawmakers of the host country to support the legitimate struggle of the entire Vietnamese people.

-Use the media and newspapers that the Vietnamese overseas have and take advantage of the feelings of the international media to support the struggle in Quoc Noi …..

The spiritual support is main, the material support is secondary.Because the material support, the money is huge, but without consensus to accept the arduous struggle of the Homeland, it will not succeed.

The following is the assessment of us (the domestic and overseas fighting forces) and the enemy (the Vietnamese fighting in the communist army):

Assessing the enemy’s situation, we are very important in planning the way of fighting. Mainly to be honest, not because of the need for propaganda and movement, but in every aspect, it is good, perfect, not acceptable. Weaknesses or weaknesses to correct. Also, not because of the strong enemy pressure in a certain period, but quickly pessimism, disorientation or slack. If you dare to straightforwardly claim the shortcomings, then a plan for adjustment is planned. Honestly recognizing the achieved results is to seize the opportunity, proceed to exploit the enemy’s weaknesses to fight.

Therefore this article is not suitable for those who are acquainted with each other, praising perfect achievements. Judging from the enemy’s situation and you are right, the plan for the next 3.5 years will focus on, prioritizing which side to face, which side is only secondary, the fight for Freedom and Democracy for Vietnam is a common need for the Vietnamese people at home and abroad, not just for one party. Making an objective judgment is the subject of the article and then the part to formulate specific plans for the future of domestic and foreign organizations, religions, and political parties. will contribute to the Work of Disarmament

Part I – Achievements:

In the past 33 years, it is fair to say that we (domestic and foreign ceramics) have achieved great results in many aspects of the fight thanks to the contribution that sacrifices the hardships of the people in the country, plus the material and spiritual support of the overseas people, including the great contributions of the national associations, the Communities, the associations and the overseas religions. of elected people, foreign politicians for human conscience have helped us in many ways to expel the brutal dictatorship that is harshly governing the Vietnamese people.

Mainly this article is about the struggle activities in the domestic, the results of the struggle over sea will be presented next time. The following are activities of domestic organizations in the past 33 years: A- Block 8406 and Party Thang Tien:



Father Nguyen Van Ly Block 8406



The revolutionaries of the early 20th century: Nguyen Thai Hoc, Phan Chau Trinh,Phan Boi Chau.
The revolutionaries of the early 21st century: Nguyen Vu Binh, Pham Hong Son, Le Thi Cong Nhan, Thich Quang Do, Nguyen Van Ly, Nguyen Van Dai, Do Nam Hai …

From a claim to Freedom and Democracy, which had only 118 members since April 2006, 1951 people have joined after 2 months. According to the most recent detailed list, published on 4 year. 2008, the public membership number has risen to 3702 members. In addition, Bloc 8406 also has 3881 members who are openly Vietnamese living abroad, along with 139 international politicians including representatives of organizations, 50 members of the Charter 77 Czechoslovakia and 50 people. US Congressman and Congressman. The number of supporters of Bloc 8406 today worldwide enrolling in many places has reached tens of thousands of people. The total number of policemen arrested includes: Number of people being convicted of 18 people, 8 people arrested without trial, 5 people have been detained and released. (As of 8.4.2008)

http://hoatdongcuakhoi8406.blogspot.com /2008/04/danhsachcacnannhanluongtam.html)
The list of victims of conscience arrested and abused.

Up to now, nearly 720 newspapers of the Vietnamese Communist Party have not reported about Bloc 8406, people in the country have no idea who Bloc 8406 is and what it is for, but through trial trials. They have to declare their crimes and penalties, so that nowadays almost all Vietnamese people know about Bloc 8406. Through that, the world knows about the political situation in Vietnam that is the Communist government that oppresses the opposition. legal and non-violent. The number of international congressmen, parliamentarians and politicians is increasingly supportive, and they understand well the true face of the Vietnamese Communist Party’s bluff propaganda.

Achievement of outstanding performance of Bloc 8406 at Domestic and International after 2 years of establishment:

– See detailed article on website:
(/_http//tongquatblogspotcom/2008/04/tintuclienquankhoi8406.html)

– (/_http//tongquatblogspotcom/2008/04/tintuclienquankhoi8406.html)

Bloc 8406 comments: Some international organizations, including the US Congress, the European Union, Amnesty International, Human Rights Watch, Reporters Without Borders, have voiced opposition Le Thi Cong Nhan’s arrest and trial. These organizations called on the Vietnamese government to release two people and some other dissidents. These organizations believe that the arrest of nonviolent dissidents violates the right to freedom of speech and assembly, rights protected by the Vietnamese constitution in article 69 and guaranteed under international conventions that Vietnam has signed. At the same time, they assumed that the trial of the dissidents was in the style of the courts in the Soviet Union of the Stalin era, merely a formality. See details on L / S Le Thi Cong Nhan of Bloc 8406 Wikipedia International Encyclopedia:

(http://en.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Th%E1%BB%8B_C%C3%B4ng_Nh%C3%A2n)

Attorney Le Thi Cong Nhan, a prisoner of conscience under the regime’s Hanoi jailed in Vietnam for fighting for human rights, nominated by the Vietnam Human Rights Network (MLNQVN) for the 2008 Gwangju Human Rights Award.

(Http://thangtien.de/index.php? option = com_content & task; = view & id; = 1449 & Itemid; = 362)

– Engineer Do Nam Hai and Professor Nguyen Chinh Ket, two Democrats of Bloc 8406 in the country have been decided by the Vietnam Human Rights Network in the United States Vietnam Human Rights Award 2006, and the award ceremony will be held in California.

– Rep. Sanchez submits a bill to commend Bloc 8406 (April 8, 2008)

– Celebrating the two-year anniversary of Bloc 8406, Overseas people support Democracy and Human Rights for Vietnam (Lam Thu Van, April 8, 2008)

– MP Ray Halligan, Western Australia National Assembly sends Area 8406 (

July 24, 2006 ) -In support of the Declaration of Liberal Democracy dated April 8, 2006 and the Call for a Great Ethnic Union to Build a Nation on April 15, 2006 (July 18, 2006) -2006)

-The letter of 50 Thai Binh citizens volunteered to sign the Declaration of Freedom and Democracy 2006 (June 4, 2006)

– 50 staff including former President Václav Havel & 49 employees of the Charter 77 Czechoslovakia supported the TDDC Declaration for Vietnam 2006 (May 23, 2006)

– Former President Václav Havel and Charter Group 77 supported the 2006 Manifesto (May 23, 2006) – The Call to Support the Declaration of Freedom and Democracy April 8, 2006 by the Australian Free Vietnamese Community ( Australian Community, May 12, 2006)

– US Congressman

stood with Vietnamese democrats (May 9, 2006) -Open Letter to Vietnamese citizens supporting the Appeal for Freedom of Political Associationnd the Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam (May 9, 2006)

– Vietnamese Heroes (Letter from Senator Gary Humphries to Lm Nguyen Van Ly) (May 5, 2006)

– Swiss-Vietnamese Commission Vietnam Democracy Manifesto (Thierry Oppikofer, May 4, 2006)

– Statement of Organizations: Community – Council – Political Media Media and Youth Union Washington State supports the Declaration of Freedom and Democracy 8406 At Home (April 30, 2006)

– Vietnam Association of Former Political Prisoners Declaration of Support for Declaration of Freedom and Democracy 8406 For Vietnam (April 30, 2006) –

An annexed Adventist Church Declaration of accession to Charter 8406 (15- 04-2006) -Buttons

of 169 Vietnamese doctors, pharmacists and dentists in many countries about Le Chi Quang’s condition. On the occasion of International Human Rights Day December 10, 2002.

(http: // www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen.htm#Version_name_169_Bac_Sé,_Doc_Sie_and_Nha_Sé_Viet_Nam_)

– EUROPEAN REGISTER FOR COMMUNIST ARTISTS ON “THE COURT OF THE COURT OF ANTI-HUMANITY” WITH THE FOLLOWING POVERTY
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file;= article & sid; = 420

RESOLUTION 1481, ARTICLE TWO:
“… The communist totalitarian regimes including the Soviet Union, Eastern Europe in the twentieth century and some communist regimes still in power in four countries around the world, are all countries violating human rights. . These offenses differ on cultural level, national boundaries, as well as depending on historical period, but they all have the same mass murders, assassinations, and individual killings without trial. concentration camp country full of human as well as mental: torture, slavery, hard labor, imprisonment, collective terrorism, mistreatment, racial assassination , religion, political opinion; violation of the right to freedom of thought, offend human conscience, prohibit freedom of the press, political freedom, monopoly, monopoly, one-party… ”

RESOLUTION 1481, ARTICLE THREE:
“The crimes are justified in the name of class struggle theory, proletarian tyranny. The justification for the above two principles of communist rule legitimized the destruction of millions of people who were deemed harmful to a socialist society, who were labeled as reactionaries and class enemies. Most victims of the communist regime are citizens of that country. Typically the gruesome murderous crimes in the Soviet Union, former Eastern Europe and other communist countries… ”

RESOLUTION 1481, ARTICLE FIVE:
“ The collapse of the Eastern European communist bloc and the Soviet Union has not been investigated. carefully by international organizations to make a full statistics on the crimes of communism, to bring the author of these evil crimes to trial before the human community, such as taking Nazi fascists to court … ”

RECOMMENDATION DECISION 1481, ARTICLE:
“The rest of the totalitarian regimes in the world continue to commit crimes. The point of national interest cannot be used to justify and override the condemnation of the human community for the crimes of these totalitarian regimes. The European Parliament strongly condemns all human rights violations in communist regimes, considering it as a crime against humanity … ”this is an important and fundamental resolution for all humanity and Vietnamese people stand up to suppress the evil regime of Vietnam communist

Vietnam ranked 178/195 in the world on freedom of the press – Thien Giao, reporter on RFA 2008-05-03

Freedom House has just released an annual report on freedom of the press worldwide in 2007. The general view is that the degree of press freedom globally has decreased over the past six years. According to this report, Vietnam ranked 178 out of 195 countries surveyed, and belongs to the group “not free.”

(http://ykien0711.blogvis.com/2008/05/03/en%e1%bb%87t-nam-x%e1%ba%bfp-h%e1%ba%a1ng-178195-tren-th%e1 % ba% bf-gi% e1% bb% 9bi-v% e1% bb% 81-t% e1% bb% b1-do-bao-chi /)

-United States Congress hears about human rights in Vietnam Male .
RFA May 11, 2008

The hearing on the situation of human rights in Vietnam will be held in the US Congress on Wednesday, May 14, showing us the United States Congress’s special interest in Humanity. Rights in VN:

(http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/vietnamnews/Congressional_Caucus_on_Vietnam_holds_hearing_on_HumanRights-05112008121850.html?searchterm=None)

– An expression of support for the Vietnam Youth Movement with Hoang Sa Truong Sa organized by 60 organizations Hai Ngoai signed on April 24, 2008: this is the statement that has many most prestigious organizations and organizations in Hai Ngoai to support the work of Quoc Noi youth.

Political Party:

1- Dai Viet Revolutionary Party (Bui Diem, CT).
2- People’s Democratic Party (Do Thanh Cong, Spokesperson).
3- Tan Dai Viet Party (Nguyen Ngoc Sang, CT).
4- Thang Tien Vietnam Party (Nguyen Ngoc Hung, Representative).
5- Party for the People (Nguyen Cong Bang, General Secretary).
6- Association for Democracy and Development of Vietnam (Au Duong The, President).
7- The Democratic Association of Laws Constitution of Da Nguyen (Dao Sang Sang, President).
8- Vietnam Alliance for Democracy (Nguyen Quoc Nam, CT).
9- National Conference of Vietnamese People in the United States (Nguyen Ngoc Bich, CT).
10- Vietnam Democratic Organization (Pham Hoang, CT).
11- Vietnam Renaissance Organization (Tran Quoc Bao, CT).
12- Vietnam Party’s Revolutionary Revolution (Do Hoang Diem, CT).
13- Vietnam National Citizen Party (Tran Phuc Yen, Chairman of the Coordination Council of VNQDĐ Overseas

Institutions ) Specialist:
1- Advocacy Committee for Democracy (Pham Dong Cac, Representative).
2- The Youth Union of the Vietnamese Soul (Nguyen Dinh Nhu, the Youth Union Chief, the Central Executive Committee).
3- The Family of Military Chiefs of the Republic of Vietnam in the Netherlands (Le Quang Ke, Representative).
4- The Colorado Reserve Officer Friendship Association (Ho Thanh Danh, President).
5- The Association of Vietnamese Religious and Political Prisoners (Pham Tran Anh, Chairman of the Overseas Executive Council).
6- Council of Huong Phu Quoc (Tran Tuan Quoc, President).
7- The ARVN Warriors’ Association in Austin and the Neighborhood (Do Van Phuc, President).
8- ARVN Veterans Association of Ontario, Canada (Nguyen Van Tan, President).
9- Association of Veterans of the ARVN, Kingdom of Belgium (Nguyen Duc Ho, President).
10- Thu Duc Former SVSQ Association, Ontario, Canada (Tran Quoc Thien, President.
11- Vietnam Women’s Union for Human Rights (Jane Do Bui, Representative). 12- The National Martial Arts School’s Alumni Association of VN Pennsylvania and Phu Can (Do Duc Chien, President).
13- Association for Former Prisoners of Politics – DFW, TX (Tran Van Chinh, President of the Association).
14- European Union of National Police of the RVN (Pham Thin, Federation Chief).
15- Association of ARVN Veterans in the Capital Region of the Army and the Near (Doan Huu Dinh, President).
16- Association of soldiers of the Republic of Vietnam DFW, TX (Pham V. Chat, Lien Truong Truong).
17- Vietnam Human Rights Network (Nguyen Thanh Trang, Head of Coordination Committee). 18- Texas Joint Venture Group (Le Luong, Team Leader).
19- The Hoa Lan Thien Chi Youth Group (Luu Phat Tan, Representative).
20- The Dutch Yellow Flag Honor Group (Nguyen Trung Cang, Representative). 21- Vietnam Hung Ca Movement (Huynh Luong Thien, Phong Trao Truong).
22- The Vietnamese Laity Movement (Do Nhu Dien, Coordinator).
23- The National Movement for the Return of Saigon’s Name (Fr. Nguyen Huu Le, Representative).
24- Center for Vietnamese Van Lang Boston, MA (Lam Thanh Hieu, Center Head).
25- Center for Vietnamese Language Arts Oakland, CA (Nguyen Khac Chuong, Center Chief).
26- Vietnamese Language Center San Jose, CA (Le Phuoc Tuan, Center Head).
27- ARVN Veterans Association in Australia (Nguyen Hung Dao, President).
28- The Vietnamese Labor Protection Committee (Tran Ngoc Thanh, CT).
29- Liaison Office of the Unions and Free Vietnamese people in France (Nguyen Phuc Tung, TTK)

Community:
1- American Community of Vietnam (Nguyen Van Tan, Chairman of the Special Council; Nguyen Bac Ai, Chairman of the Executive Council; Truong Ngoc Tich, Chairman of the Steering Committee).
2- Canadian Federation of Vietnamese (Ngo Van Ut, General Secretary).
3- Vietnamese Community in Belgium (Le Huu Dao, Coordinator).
4- Community of Vietnamese Communist Refugee in the Netherlands (Dao Cong Long, CT).
5- Vietnamese Community in Washington, DC, Maryland and Virginia regions (Ly Van Phuoc, CT).
6- National Vietnamese Community Dallas, TX (Thai Hoa To, CT).
7- North East Pennsylvania National Vietnamese Community, PA (Do Duc Chien, Spokesperson).
8- The National Vietnamese Community Fort Worth, TX (Nguyen Xuan Hung, CT).
9- Houston National Vietnamese Community, TX (Hoang Duy Hung, CT).
10- National Vietnamese Community Lancaster PA and the Neighborhood, PA (Le Van Chieu, CT).
11- Michigan National Vietnamese Community, MI (Pham V. Thanh, CT).
12- Northern California Community, CA (Nguyen Ngoc Tien, CT).
13- New Hampshire Vietnamese Community, NH (Cao Xuan Khai, CT).
14- Vietnamese Iowa Community (Pham Cang, CT).
15- VN Oregon Community (Nguyen Bac Ai, CT).
16- VN Community Tampa Bay, FL (Vu Dinh Vuong, CT).
17- Vietnamese Community of Thong Hop Georgia (Ngo Thanh Lam, CT).
18- Florida Vietnamese Community (Ms. Dong Thanh, Chairman of the Executive Committee – Chu Ba Yen, Chairman of the Board of Representatives).
19- Vietnamese Community in Liège, Belgium (Le Huu Dao, CT).

(http://tudongonluan.atspace.com/50/banlentieng.html),

-Action No. 21 of Bloc 8406 before the brutal repression of the communist army from April 29, 2008

To prepare the atmosphere, or in communist language, to “establish a welcome record” on the day of reunification 30- 04, the torch relay of Beijing Olympics April 29, the great celebration of the Three Gorges of Vesak May 13, 2008, the Vietnamese Communist government has carried out a series of brutal persecution against all segments of the people. domestic.

(http://tudongonluan.atspace.com/51/khangthu21.html)

B-Independent Union:



Thousands of workers go on strike because their wages are not enough.



Vietnamese workers were brutally beaten when they went on strike Although they did not have any remarkable achievements because of the persecution and brutal suppression, the establishment of the Independent Union in Vietnam had strong support from other countries Freedom countries, especially Poland, Czechoslovakia and other countries and escaped the bondage of the international policy in 1989 in Eastern Europe. This is the first step in forming a public organization to advocate for the interests of workers, despite the heavy repression. Vietnam and the violence of Vietnam have never recognized the Labor Union. The current trade union must operate secretly like the Solidarity Union of Poland before. of Vietnamese workers.

C-Cao Cao Human:



Dr. Nguyen Dan Que

Founded by Dr. Nguyen Dan Que on May 11, 1990 with his like-minded friends to fight for Freedom and Democracy for Vietnam after being arrested in 1978 with 78 people His member of the National Front for Progress. His Human Movement is currently supported by many international and American politicians. Especially on November 11, 1990, the founding day of Cao Trao Nhan Dan by Mr. Que was chosen by the US President as Human Rights Day for Vietnam.

On September 20, 2006, in response to Bloc 8406’s proposal to establish the Coalition of Freedom and Democracy Forces for Vietnam, Mr. Que warmly welcomed and wished to conduct the Union to fight more effectively. This is the result of the contested Forces wanting to sit together to overthrow the communist tyranny. Unfortunately, the specific combination has not proceeded as expected by the entire Vietnamese people. Cao Trao Nhan Nhan’s household and international politicians are very beneficial to the Vietnamese national struggle movement in the future.

The arrest of B / S Nguyen Dan Que has made some countries object to the Vietnamese communist government as follows:
(http://tudongonluan.atspace.com/51/khangthu21.html)

(http://rallyingfordemocracy.org/ctnb /NEWS_vn/20030409_TinBoNgoaiGiaoHoaKy.htm)

-The US State Department officially opposes the Vietnamese Communist’s arrest of Dr. Nguyen Dan Que and other dissidents: Parallel to the objections of the law enforcement, executive, organizations Unions and human rights around the world, the media together unanimously spoke out against the illegal arrest of Dr. Que. Just a day after Dr. Que was arrested by Radio Freedom Asia, which announced the morning of March 18, the news and commentary on Dr. Que’s arrest, followed by the BBC, Voice of America ( VOA), Thong Tan Reuter, AFP, AP … and Vietnamese-language stations in all five continents continuously reported and commented on the illegal arrest of Dr. Que.

– THE UNITED NATIONS OF VIETNAMESE COMMUNISTS BETWEEN THE UNION AND THE MAGIC BOND OF DOCTOR NGUYEN DAN QUE

– http://www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen/TT%20-%20Lien%20Hiep%20Quoc%20va%20BS%20Que%20-%20Unicode.htm

June 3, 2004, in collaboration with Thought Recite Robert F. Kennedy, Freedom Now, sent Petition to United Nations Human Rights Commission Working Group on United Nations Human Rights Commission Working Group on Arbitrary Detention). The content of the Petition presents that Dr. Que was arbitrarily arrested by the Vietnamese Communist authorities, in violation of international law. Using its authority under the United Nations Charter, the Action Group asked the Vietnamese government to explain the allegations in the Petition.

It is known that the United Nations Action Group consists of judges representing five countries: Algeria, Paraguay, Spain, Hungary, and Persia. Through the 18-point Condition Conclusion, the Action Group stated that the Vietnamese authorities did not provide in detail the allegations that Dr. Que had violated Article 80, but only declared generally as allegations. true. Based on the events that happened, the Action Team reached its conclusion through the last three points, points 16, 17, and 18:

16: … Dr. Que’s action only included acting in a manner. His moderation of freedom of thought and expression is included in article 19 of the Universal Declaration of Human Rights, and article 19 of the International Covenant on Civil and Political Rights, which the Republic Socialist Vietnam is a member.

17: Dr. Nguyen Dan Que’s deprivation of liberty is arbitrary, contrary to article 19 of the Universal Declaration of Human Rights, and article 19 of the International Covenant on Civil and Political Rights, which the Socialist Republic of Vietnam is a member.

18: Having realized that Dr. Que was being held in arbitrary detention, the Action Team requested the authorities of the Socialist Republic of Vietnam to take all necessary measures to save the situation in order to fit the and the principles included in the Universal Declaration of Human Rights and the International Covenant on Civil and Political Rights.

– In a Universal Declaration / Appeal on the morning of November 16, 2004, the jailed International Literature Committee for the Advancement of Writers condemns and opposes the Vietnamese Communist government that has just sentenced Pastor Nguyen Hong. Quang spent 3 years in prison in a closed trial on November 12, 2004. Van But International assessed that detaining lawyer Nguyen Hong Quang, a dissident writer using the Internet, is a violation of freedom of expression. , establish and join the association of the litigants. That right is guaranteed by the International Covenant on Civil and Political Rights which the Viet Cong has signed. Therefore, Van But International demanded the immediate and unconditional release of prisoner Nguyen Hong Quang.

(http://www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen/VBQT%20doi%20phong%20thich%20MS%20Nguyen%20Hong%20Quang.htm)

D- Movement for National Unification and Building Democracy in Vietnam launched by G / S Nguyen Dinh Huy in December 1992.



Professor Nguyen Dinh Huy

Professor Nguyen Dinh Huy, ie Nguyen Viet Thang, was born in 1932 in North Vietnam, Professor of History, Vice President of the Party Tan Dai Viet, In charge of the Organization, Deputy General Secretary of Phong Trao Progressive Country.

After April 30, 1975, the Vietnamese Communist forcibly occupied the South, he was detained for 17 consecutive years and released in February 1992. After 3 months of his release, he contacted his former comrades and other patriotic figures at home and abroad to form the Movement of National Unification and Build Democracy, as well as seek international support to support the fight strategy for Vietnam’s Freedom and Democracy in the moderate direction.

On December 11, 1992, his comrades abroad mobilized the International Committee to Support Free Vietnam as well as many other international organizations to support the launching ceremony of the National Unity Movement and Construction. Democracy in the US House of Representatives, with its leading personnel, along with the Movement’s Declaration and Diamond Aspects was widely disseminated. The content of the declaration and the platform expresses a peaceful and constructive spirit of struggle that requires the Vietnamese Communist government to exercise Democracy and respect Human Rights for national development.

After his debut in the US House of Representatives, inside the country, the Vietnamese communist authorities regularly persecuted Professor Nguyen Dinh Huy and the leaders of the Movement of National Unification and Construction of Democracy through investigations and interrogations. by the police. During these interrogations, on May 25, 1993, Mr. Pham Van Quang, Deputy General Secretary of Phong Trao, was poisoned to death from drinking a cup of tea brought by the Communist police.

In November 1993, the Movement, led by Professor Nguyen Dinh Huy, with the support of the International Committee for the Support of Free Vietnam, planned to organize an International Conference on Vietnam Development in Saigon, Vietnam. Male, November 27, 1993. But on November 11, 1993, the Vietnamese Communist authorities banned the organization and arrested Professor Nguyen Dinh Huy, the same leader of the Movement and two officials of the Vietnam Democratic Union from the United States. to help organize the workshop. After nearly two years of illegal detention, Professor Nguyen Dinh Huy, along with the leaders of the Phong Trao and the two officials of the Vietnam Democratic Union were brought to a closed trial by the Vietnamese communist authorities and the parties were not right of defense.

Results with blatant human rights abuses:

1. Professor Nguyen Dinh Huy, President, 15 years in prison
2. Professor Pham Tuong, Vice President, 14 years in prison
3. Former Member of Congress Nguyen Ngoc Tan, Vice President, 11 years in prison (currently passed away after being released)
4. Professor Dong Tuy, Vice President, 11 years imprisonment (now released)
5. Mr. Bui Kim Dinh, General Secretary, 12 years imprisonment (currently released)
6. Mr. Nguyen Van Bien, member, 8 five years imprisonment (currently released)
7. Mr. Nguyen Van Chau, member, 4 years in prison (currently released)
8. Mr. Nguyen Tan Tri, Officer of the Vietnam Democratic Union, 7 five years imprisonment (currently released)
9. Mr. Tran Quang Liem, Officer of the Vietnam Democratic Union, 4 years imprisonment (now released)

Professor Nguyen Dinh Huy, despite being imprisoned and tortured by the Vietnamese communist authorities for 17 years, but facing the problems of the nation, he got rid of his hatred, chose the path of peaceful struggle, to find a solution. is it reasonable for the two Nationalist-Communist factions to accept, to proceed to a liberal and democratic regime, to rebuild the ruined country caused by the mistakes of the past with the whole people. But the Vietnamese communist authorities were not aware of the nation’s problems, so that power ambitions overwhelm conscience, straightforwardly suppressing even advocates of peaceful struggles, but Professor Nguyen Dinh Huy and Phong Trao National Unification and Democracy Construction are typical cases. G / S Huy’s time in detention was 2 times after 1975 for a total of 29 years in prison.

(http://baotoquoc.com/baotoquoc/index.php?view=story&subjectid;=862)

E-21st Century Democratic Party



Mr. Hoang Minh Chinh (1920-2008)

http://en.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_th%E1%BA%BF_k%E1% BB% B7_21

The Democratic Party of the 21st century or the Democratic Party (XXI) are the abbreviations of the Democratic Party of Vietnam – a political party in Vietnam was established on June 1, 2006, by Hoang Minh Chinh. The Secretary-General and Tran Khue are the Deputy Secretary-General, the central office operates in Ho Chi Minh City.

On June 1, 2006, Hoang Minh Chinh, former General Secretary of the Democratic Party of Vietnam in the 1950s, issued a statement to revive the operation of the Democratic Party of Vietnam, named the Democratic Party of the 21st century or the Democratic Party. (XXI) is often used to denote being the party of the 21st century.

The Democratic Party of the 21st Century or the Democratic Party (XXI) was considered by the founders to be the resurgence of the Democratic Party of Vietnam – a political party founded in 1944 and declared dissolution in 1988 – Now restore the name of the dissolved political party

http://www.vndm.org/modules.php?name=News&file;=article&sid;=2346

“In June 2006, Prof. Hoang Minh Chinh

announced his reinstatement. The Democratic Party of Vietnam aims to build a democratic, united, and developed country of Vietnam. Seriously ill and hospitalized, GS continued to work to build and prepare a new generation of Democratic Party leadership. At the same time, he wrote many end-of-life research papers on the country’s future direction.

February 7, 2008, on the first day of the Lunar New Year at 23h08, GS breathed his last. GS left to leave a lot of admiration for those who follow the democratic path.

Professor’s life is a long series of years of hard struggle, constantly fighting for the independence of the country, and he is a stubborn soldier fighting for the country’s liberalization and democratization, till the end. the last breath in the hospital bed ”

F-Religions in Vietnam require Freedom of Religion and Human Rights:



Along with political groups and organizations, religions in Vietnam including: Buddhism, Catholicism, Protestantism, Hoa Hao, and Cao Dai all simultaneously fight for Religious Freedom and Human Rights. with many different forms of protest, but in general it has brought the entire Vietnamese people in Quoc Noi and Hai Ngoai, as well as the whole world to fully understand the truth of the Vietnamese communist: outside, it is proud of religious freedom, freedom association, respect for human rights, respect for democracy but the opposite in nature: There is no freedom of religion, democracy and human rights in civil society, The press, the media only reflect one way. of the party, the National Assembly of the party, not of the people.

The protest activities of the religions in Vietnam have raised to everyone is to slap all religions not for the spiritual life of the people, but for and only for the party’s needs. Those religions who obey are allowed to operate (State-owned religions) within the permitted framework, and religions that do not follow the party’s direction will be banned from activities and harassed, intimidated and suppressed.

The judgment of the US Commission on International Religious Freedom on religion in Vietnam in 2008 is as follows:

Based on the October 2007 investigation in Vietnam along with investigations and studies, the Report containing many accurate details of the United States Commission for the Protection of Religious Freedom in the World is a valuable tool. for those who are interested in religious freedom in Vietnam. The Report is also a source of complete and exciting information for believers and religious communities in Vietnam who are courageously enduring harassment, control and being arrested and imprisoned for pursuing how to peacefully our beliefs and beliefs ”.

Now, the US Commission for the Protection of Religious Freedom in the World declares that Vietnam needs to be re-listed in the CPC because Vietnam “continues to treat badly, discriminate against and limit religious freedom. The government continued to imprison and arrest dozens of people who advocated for religious freedom in Vietnam. Ethnic minority Buddhists and Protestants are frequently harassed, beaten, imprisoned, imprisoned, discriminated against, and forced to continue to be forced to deny their beliefs.

“The suppression of UBCV not only targets high-ranking clergy but also directly obstructs monks of the UBCV Representative Boards in the provinces and cities.” The report reported a series of events where police harassed, interrogated, “denounced the public’s suffering”, expelled monks and nuns from the temple, or persuaded the Buddhist masses to denounce monks or nuns or boycott not coming If they do not do this, they will lose their jobs, their children cannot go to school. The report emphasizes the authorities seeking to expel Venerable Thich Tri Khai from Giac Hai Pagoda in Don Duong District, Lam Dong Province.

(http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=993#note1)

– Some typical activities of religions in Vietnam require Religious Freedom:

1- Buddhism in Vietnam:



In the face of events of persecution of religions in Vietnam, especially Buddhism, US Congressmen and Congressmen strongly condemn the repression of Vietnamese Buddhism through resolution 427 of October 2003 as follows:

“-Day 30 October 2003, two Women Representatives Sanchez, Lofgren and co-sponsors Chris Smith, Tom Davis and Ed Royce submitted the Draft Resolution 427 to the House Foreign Affairs Committee, congratulating them. the bicameral leader of the UBCV has just been elected, congratulated the UBCV for the activities, and at the same time protested against the CPV’s repressive actions against this church.

… Therefore, it is now decided that: THE UNITED STATES SENATE

Congratulations to the Clergy of the newly elected Unified Buddhist Church of Vietnam;

– Recommend that the Government of Vietnam respect the right of independent religious organizations to meet, worship, operate, and practice their beliefs in accordance with the Constitution of Vietnam as well as national conventions. economy in which Vietnam is a signatory;

– Recommend that the Government of Vietnam release all citizens who are imprisoned or under house arrest for practicing their beliefs or expressing their public support for religious freedom, especially in the case of the Elder Hoa. Senior Thich Huyen Quang and Venerable Thich Quang Do;

– Do your best to promote religious freedom in Vietnam, and to promote this goal, recommend the National Assembly to pass, and the President to sign the Act on Human Rights to develop freedom and democracy in Vietnam. Male, and advised Congress and law enforcement to implement the action plans of the United States Commission for the Protection of World Religious Freedom; and – Advise the US Embassy in Vietnam to closely monitor cases of bad treatment for religious and religious practices, and to regularly visit detained clergy, especially to those who need medical care, and report to the National Assembly specific measures to protect and promote religious freedom in Vietnam.

– August 8, 2008 International Human Rights Commission HRW Denounced: There is No Freedom of Religion in Vietnam

The International Human Rights Commission (HRW) announced that while Vietnam prepares to hold the Vesak International Buddha’s Day next week, one of the great Buddhist days, the Vietnamese government must immediately stop the persecution. , inhibition and imprisonment of Buddhists, monks and other religious organizations. There are still more than 400 people in prison for peacefully exercising their political and religious rights. “

http://www.viettan.org/article.php3?id_article=5647

– “The International Human Rights Commission (HRW) announced that while Vietnam prepares to hold the Vesak International Buddha’s Day next week, one of the big Buddhist days, the Vietnamese government must stop working. persecution, suppression and imprisonment of Buddhists, monks and other religious organizations. There are still more than 400 people in prison for peaceful exercise of their religious and political rights.

As a country that has signed international civil and political rights conventions and human rights conventions, Vietnam must respect freedom of religion and belief.

– “On the occasion of the 2008 UN Buddha’s Birthday in Hanoi, 51 international figures claim the Socialist Republic of Vietnam to end the persecution of the UBCV, release Thich Huyen Quang, Venerable Thich Quang Do and restore the right to birth. legal activities of the UBCV “

http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?p=1528

– “On May 5, 2007 the United States International Commission on Religious Freedom proposed to bring Vietnam back to the list of countries in need of special treatment. concerned about religious freedom, referred to as CPC.In a press conference at the National Press Club in Washington DC at 10 a.m. (9 p.m. Vietnam), the International Commission on Self Do Religion has released its annual report on religious freedom in the world over the past year.

The commission proposed to keep last year’s list of eight countries in particular need of special attention to religious freedom, and include three more countries on this list, namely Pakistan, Turkmenistan and Vietnam. “

http://www.khmerland.net/vn/index.php?option=com_content&task;=view&id;=112&Itemid;=39

People at home and abroad all know that with the Communist Party’s policy of “destroying religions” dating back to the birth of Communistism, the current situation is different from 1930-1945. that they could not be done, so they turned to vandalizing and neutralizing religions, led by Buddhism with 75% of the population. By setting up a State Buddhist Church (4.11.1981) in parallel with the Unified Buddhist Church of Vietnam, which has been present for thousands of years in Vietnam.

From this time, the Vietnamese Communist Party on the one hand arrested, imprisoned and tortured the monks and nuns of the Unified Buddhist Sangha, on the other hand confiscated the Buddhist monasteries of the UBCV and assigned them to the State-owned Buddhist Sangha, at the same time isolated the Buddhist monks from feeding them. Doan nun, a monk of the UBCV, then let the police in the guise of a monk stray deep into the internal of the UBCV.

In the face of the malevolent tricks of the Vietnamese Communists, the entire Vietnamese people admire the spirit of indomitable and indomitable not only the two monks at the head of the church but also the group of monks and nuns in the church who have persevered. For the past 33 years to protect the Church, there is no way that a minority of monks and nuns can surrender or be restrained by many deceitful tricks of the Vietnamese Communist Party. The confrontation with the communist tyranny, cleaning up the sleeping rows of monks and nuns in Quoc Noi and overseas made Viet Gian confused and those who betrayed the church were exposed, so they reacted against the Instruction. of the betrayal minority group hoping to make a “coup”, if it fails, they still have their way to follow the State Church, but the public opinion at home and abroad has clearly seen and condemned these opportunities.

The global trend of today’s era is: only real Democracy, true Religion, will exist. Fake Democracy, disguised Freedom will be eliminated. Dictator, injustice will be replaced by real Free Democracy. The battle between “Truth” and “Fraud” will still be hard and hard, whoever perseveres will win, whoever impatiently will fail. The soldier for Democratic Freedom must not give up in the middle of the street! The world’s support for Freedom, Democracy, Human Rights is increasingly triumphant in many countries and the Dictator will have to be rejected by history of course the process of “Human Evolution” in the 21st century

2- Catholicism of Vietnam:



Father Nguyen Van Ly fights for Religious Freedom



Christmas 2007, thousands of parishioners gathered to pray in the Nha Chung street area to reclaim the Kham Su Temple.

The Catholic side, because it is a strict international religious organization from the Vatican, can only cause divisions within the clergy. in all fields, but those who do not obey the control of the communist, even those who have sympathy and meritorious services to the communist during the Vietnam War period 1954-1975 will also be harmed by them (Typically, Priest Nguyen Ngoc Lan and Father Chan Tin.), and those who oppose the dictatorship of the Vietnamese communist government are subject to imprisonment and confiscation of the church’s land, sometimes being abolished or murdered (Like the case Fr Tran Dinh Thu belongs to the Dong Cong Thu Duc lineage.) Father Nguyen Van Ly of Nguyet Bieu parish, Hue, just because he objected to the Communist regime’s persecution of religion, was imprisoned for 14 years and managed under administration (incarcerated). ) decades.Father Nguyen Van Vang, in the case of Vinh Son rebellion against the dictatorship, was put in harsh shackles to death in prison in 1985. The peaceful opposition of Bishop Nguyen Kim Dien paid for his own life.

– “We have witnessed the struggles of the Catholic community in Vietnam in general and in the Archdiocese of Hanoi in particular for its legitimate interests. … That struggle is just because its purpose is justified, but the form of fighting is also completely justified from the beginning. Because the Vietnamese Catholic community struggles to claim only its legal rights and in a completely orderly, nonviolent manner. Such a fight has not only been supported by the Vietnamese CGV community and good overseas Vietnamese, but is also cared for by the Vatican and internationally … In short, the fight for justice and for the legitimate interests of the Vietnamese Church in general and of the Archbishop of Hanoi in particular, is a just struggle. ”

(http://tudongonluan.atspace.com/45/toakhamsu.html)

– “The Hanoi parishioners’ gathering to pray from December 18, 2007 for the Nuncio to be returned to the Archdiocese of Hanoi continues to act. Recently the domestic media reported that the land of the Archdiocese of Hanoi has been officially handed over to the state by the manager for more than a few decades … Until today, hundreds of Hanoi parishioners still continue It was customary to gather on the grounds of the Nuncio to pray, even though there was a weekend scuffle that injured some parishioners and there were signs that the authorities might take strong measures. .2008. “

Comment: When the peaceful but determined struggle of Vietnamese Catholics reaches a critical point, the Vietnamese communist violence appears awkward and passive, the announcement will take strong measures by the deadline of January 27. In 2008, if the Hanoi GP side refused to disband, the Hanoi people still resolutely confronted and even strengthened the prayers, in the end the Vietnamese communist had to give in by letting the person contacted the Hanoi GP will settle the handover of land. the belt has been illegally occupied by the Hanoi Nuncio (but currently has not seen the specific return)

(http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=30%2f01 % 2f2008 # 51760)

(http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=01%2f02%2f2008#51867)

3-Protestant, Hoa Hao, Cao Dai:



Hoa Hao followers set themselves on fire for religious freedom,

Pastor Vo Quoc Khanh after being beaten by the police



The Cao Dai Temple in Tay Ninh was confiscated in 1978 (this is the main religious headquarters of the Cao Dai religion)

Other religious dignitaries such as Cao Dai, Hoa Hao, and Protestants also could not avoid their fate, depending on their level. more or less obedience or opposition were all tracked, threatened, abused or mercilessly murdered. Negative protests such as the simultaneous self-immolation of 12 monks at Duoc Su Pagoda, Can Poetry in November 1975 to protest the evil Communist rule over Buddhism and then until now there are 10 nuns one by one to claim Freedom of Religion in Vietnam. 2 self-immolations and hundreds of demonstrations against the harsh religious regime. Dao Cao Dai has been confiscated to the Holy See, the holy places are put under government control.

Today the Cao Dai religion has had voices demanding for Religious Freedom over the past 33 years dissolved, the Holy See was confiscated, all leaders are imprisoned and imprisoned. The Cao Dai religion includes: Two claims made in the prayer of March 17, 2008 at Bodhi Root before the Holy See’s Nine Staircase include: “- First, the restoration of the Great Church of the Three States Pho Do is in accordance with the New Law and the Dharma Chief Justice; second, the Magistrates’ Council had to leave, and return the Holy See to the original Caodaist monk. – These two claims are fundamental, expressing both political and religious contradictions in Cao Dai religion. They are fierce in character, and drastic to the extent that, from the direct collision with the Holy Land and the Canon Law of a religion that has existed for 80 years, with 30 years of smoldering contradictions with no resolution. That milestone was 1978. ” See details of Cao Dai’s struggles on the website:

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-CaoDai-itinerary-from-1975-part1-TGiao-06182008160318.html

Please see the main article:

The Vietnamese Communist Rulers For Religions From Near History To Now. of Long Dien on the website:

– http://www.toquocdanhdutrachnhiem.com/

– 
http://suutamlichsu.blogspot.com/2007/03/nhung-thu-doan-cua-csvn-doi-voi-ton. html

– http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file;=article&sid;=1462

– Although there are no coordinated activities yet, in many situations religions have a common appeal to claim Freedom of Religion:

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=78575

The Appeal for Democracy of Religions in Vietnam.

The Appeal for Democracy of Religions in Vietnam May 15, 2008

“We are the monks of the independent Churches in Vietnam including Buddhism, Catholicism, Protestantism, Hoa Hao and Cao Dai, for Religious conscience and civic responsibility, to you A Call to Democracy for Vietnam, comes from the following comments:

1. Throughout Vietnamese history, religious belief is still the spiritual support for the people and always beside the ups and downs of the nation. However, since the totalitarian Communist regime was imposed on the Vietnamese people, due to the influence of Marxism-Leninism, the Communist Party has rejected the role of religion, seeing religion as “an opiate to induce sleep. people “or” enemies of the proletariat! ” Therefore, the role of religion in the spiritual, cultural and ethical life is no longer positively shown. After 1954 in the North and after 1975 in the South, many religious monks died or were imprisoned in re-education camps, parishioners were discriminated against, and their property confiscated. Now not paid! The authorities organized religious security forces and many specialized agencies to infiltrate religions to find ways to manipulate, weaken and degrade religion. At the same time, the Party has restricted or deprived of social and humanitarian activities of religion. This has paralyzed the Churches, causing Vietnamese society to die, the poor people suffer, because religion is marginalized.

Now, you are the leader but are also the victim of wrong views and wrong ways left by your predecessor, but you are still not definitive to end it today!

2. Now humanity is entering the era of globalization with a very vivid development in terms of economy, culture, science and technology, especially in the political aspect, following the trend of promoting democracy. and respect for human rights, from confrontation of disputes to cooperative dialogue, erasing the hard and painful old order of the dreadful cold war era. Vietnam is also integrating into the global economic flow, attracting investment and aid from Western liberal and democratic countries, making the country’s economy significantly progress. At the same time, more than three million expatriates have settled, working in the most advanced countries, with their human resources, resources and patriotism, also the driving force for the development of the Homeland in recent years.

However, economic progress has not been able to ensure that our country is free from serious problems such as human rights and civil rights being abused everywhere, and the spiritual and spiritual values ​​are discarded. , a bad environment, education without authentic goals, the right strategy, so it can’t produce talent for the country, the degenerated cultural lifestyle threatens to destroy the long-standing culture of Our nation. Add to that the destructive acts of corruption that destroy the country, the privileged habit associated with the privilege of appropriating the property of the people and of the country, the wasteful lifestyle and depravity on the poverty of the people. , the above deception is quite common in society, depleting people’s confidence, weakening national capacity, backward defense capacity, The national territory built by long-lived ancestors is being slowly appropriated and exploited by the Northern hegemony. This is a malevolence that can cause immeasurable catastrophe for our children and grandchildren in the near future!

3. To return the role of Religion in restoring the moral and spiritual values ​​of the nation, taking full advantage of every opportunity for national development, uniting the entire people to prevent any threat to the poison In terms of establishment and territorial integrity, we believe that there is no other way but the urgent path of authentic democratization. Only in a free and democratic society can people bring into play their rich initiatives and capacities for comprehensive development of the country. Only through a free and fair general election can a state that represents the entire people can be formed, that can ensure the production of rulers who are intelligent, mindful, capable, brave and capable. the mission that the people entrust, knowing to put the interests of the nation first. Only then will the ambitions of international hegemony be nullified! “

…. Co-calling:

– “Venerable Thich Thien Minh (VNTN Buddhism)
– Pastor Nguyen Hong Quang (Protestant)
– Priest Phan Van Loi (Catholic)
– Master Le Quang Tan (Cao Dai)
– Monk Le Minh Triet (PG . Hoa Hao)

You friar supporters appeal:

Thich Nhat Ban
Venerable Thich Thien Khanh
Venerable Thich Thanh Tinh
Venerable Thich Nhu Tan
Venerable Thich Thien Loc
Venerable Thich Thien Thang
Pastor Than Van Truong
Section Reverend Dinh Thanh Truong
Pastor Pham Ngoc Thach
Pastor Phan Van Ut
Pastor Huynh Van Ministry Dang
Nang Acting
Pastor Nguyen Hoang Hoa ”

F-Summary:

That is the summing up of the achievements of religions and groups fighting for Freedom, Democracy, Human Rights, achieved in the past 33 years.

– Although the movement to fight for Democratic Freedom in Vietnam has not yet achieved the ultimate goal of dissolving the Communist Party of Vietnam and establishing a Democratic institution for the country during the 33 years of struggle, it has brought about the whole country. The people of great victories are: –

Make the entire Vietnamese people know that the false face of the Vietnamese Communist is the ward to sell the country, harm the people. The resilient struggle despite suffering many hardships of the Democratic movements is the will of the entire Vietnamese people cannot live under the dictatorship and dishonesty of the Communist Party of Vietnam.
-Make the whole world, especially the countries currently trading with the Vietnam communist, know about the brutal rule and trampling on Human Rights, infringing upon the rights of Freedom, Democracy of the entire Vietnamese people open to stay away from dictators ,putrid.
-Making the international left-wing media has also changed the one-sided and ancient perception for the Movement for Democracy, demanding Religious Freedom in Vietnam.

– Make the rulers of the Vietnam Communist Party always in a passive position, denounced by the masses of international and domestic people, making them anxious to find ways to deal with the movement and always fear. for the day of the regime’s fall, and the courts will all be put on trial before the entire National Citizen of Vietnam.

Part 2
– Weaknesses and weaknesses in the domestic struggle activities

-The Vietnamese Quoc Noi’s comment: In February 2008, Nguyen Vu Binh, a resilient soldier in Bloc 8406, gave a very honest comment and analysis on the situation of the struggle for Democracy in the country as follows:

“ We need to recognize and appreciate the new opponents in hopes of winning this tough Democracy campaign. ”

– “It is a pity that people with conscience, Democracy fighters do not have the solidarity and clear directions to help the ruled to understand the root of their suffering as well as to encourage organizing them to fight back for their future. “

Evaluation of the struggles, journalist Nguyen Vu Binh has commented on 3 areas as follows:

“1 / Activities aimed at raising people’s knowledge, encouraging the spirit of patriotism: It can be said that this is a great achievement of Vietnam’s development over the past years, … all Democrats and People with sympathy for the development of the country have agreed on one goal with high determination: the current Vietnamese communist regime must be dissolved.

2 / The condemnation and denunciation of the regime together with the campaign to seek international support for development: … the denunciation of the regime together with the campaign to seek national support. The economy has achieved very important successes: first of all, Vietnam Development has established close and close relationships with the organizations representing the progressive Democratic forces in the world … First of all, although the evidence on the persecution of Human Rights and Democracy that PTDC has and denounces internationally is vivid and expensive, but the pressure on the Vietnamese government is very limited. The concern of the United States on the issue of Democracy and Human Rights recently has brought many forms as well as soothing properties for the PTE after a fierce repression.

3 / Activities with the goal of gathering forces, combining Democracy fighters: One, we are not fully aware of the importance of the goal of gathering forces, Two, we do not have unity most in action and mode of combination, gather forces. Third, the effectiveness of the Vietnamese government’s policy in preventing and suppressing the combined efforts of the Vietnamese development. ”

In summary: Meanwhile, the Vietnamese authorities are carrying out many ominous plots and demons to control and degrade the domestic development in the country as well as the development of Vietnamese development in general.

“If the PTDC does not correctly recognize the attack strategy of the Vietnamese security, which mainly relies on the maneuvering tactic, it will surely suffer painful failure.”

“There are two types of bivalve Democracy, that is, the person is actively plugged in and the people of the PTDC are being controlled. There are two types of plugs, the type with security operations and the normal type that the criminal party calls a special agent. People of PTDC were controlled for many reasons, but mainly afraid of imprisonment. .. Just with the number of people that Vietnam security can plug and control at present, in the necessary cases to mobilize a majority of them, the Vietnamese government can destroy most of PTDC’s power. in any plan. “

(http://tudongonluan.atspace.com/47/tuonglai.html)

Author’s comment:

I) – The ability of the enemy: Before talking about the weaknesses and weaknesses of the domestic struggle movement, we should try to comment on the ability of the enemy to cope (the Viet Gian communists) and then identify the difficulties. With over 3 million party members, over 1 million police and officers from incubation to the central government, nearly 1 million regular troops and local security forces are forced to act as henchmen , a defense tool for the dictator party instead of defending the Fatherland.

The security network of groups, wards, districts, and districts has caused people’s intelligence to listen to people’s eyes, causing great difficulties for the movements for the fight for freedom of democracy in the country. With the majority of the poor, running to eat each meal is also a factor slowing the struggle of the entire population.

But from the strengths of the enemy, the inevitable collapse of the regime is revealed: because the more corrupt, the more the people hate the regime, the more exploited the people, the more poverty will come to fight to find a way to live. The eternal rule: “Where there is oppression, there is land.” rotten, degrading society, trampled beliefs will be the trigger to collapse the regime at any time!

II) The mistakes encountered by the movements of the struggle for Democracy and Religious Freedom:

a- There is not a clear consensus of the top religious leaders:

It can be said that after 1975, within a few months after the communist occupation of the South Vietnam, they applied strictly according to the International Communist regime’s method of destroying religions. businessman

shows the intention of dividing religion, a dirty trick of the communist. The state religious leaders have turned their backs on the Ethnic Group and abandoned their fellow believers, typically as follows:

a) -For Buddhism: all the temples were requisitioned to serve as one basis or another, otherwise, the lay people to live in, the pagoda would lose the dignity and secularization gradually. In terms of facilities, it was destroyed by the above ways, but for the church’s organizational structure, the communists used a familiar tactic of “sticking him against his back”, which means using monks and nuns to divide monks. nuns to sabotage internal church. In addition, CS intelligence officers in charge of Religion always find ways to divide the religious leaders’ sleep by setting up a State-run Church in parallel with the Official Church to divide nuns and nuns. and believers.

b) – The Catholic side, because it is a separate organization with international followers from the Vatican, the communist causes division within the clergy. in all fields, but those who do not obey the control of the communist, even those who have sympathy and meritorious services to the communist during the Vietnam War period 1954-1975 will also be harmed by them (Typically, Pastor Nguyen Ngoc Lan and Father Chan Tin.), and those who oppose the dictatorship of the Vietnamese Communist Party face many imprisonment penalties for confiscation of the church’s land, sometimes being abolished or murdered (such as the case of Fr. Tran Dinh Thu belongs to the Cong Dong Cong Thu Duc lineage.) Father Nguyen Van Ly of Nguyet Bieu parish, Hue, because he objected to the Communist regime’s persecution of religion, was imprisoned for 14 years and managed (incarcerated). decades.Father Nguyen Van Vang, in the case of Vinh Son rebellion against the dictatorship, was put in harsh shackles to death in prison in 1985. The peaceful opposition of Bishop Nguyen Kim Dien paid for his own life.

c) – Other religious dignitaries such as Cao Dai, Hoa Hao, and Protestants cannot avoid their fate, depending on the degree of submission or their resistance to more or less all are followed, threatened, or abused. negative protests such as the mass self-immolation of 12 monks at Duoc Su Pagoda in Can Tho in November 1975 to protest the evil Communist rule over Buddhism and then Up to now, there are 10 nuns turn to self-immolation to claim for Religious Freedom in Vietnam. The Hoa Hao Buddhist Association has had 2 self-immolations and hundreds of demonstrations against the harsh regime of Religion. Dao Cao Dai has been confiscated to the Holy See, the holy places are put under government control.

The self-immolation incident at Can Tho Provincial Pharmacy Monastery in 1975 was the first trigger for the outbreak of the communist Phap Kan climax, and since then it spread to everywhere. Medicine Su Zen Monastery in Tan Long A Hamlet, Tan Binh Commune, Phung Hiep District, Can Tho Province; Located about 30km from Can Tho city, on the highway of Can Tho – Soc Trang. Case evolution:

November 2, 1975 (ie September 29, At Mao) occurred the self-immolation incident of 12 monks at the same time. nuns at the Pharmacy Monastery to protest the communists’ suppression of the Unified Buddhist Church of Vietnam. Those 12 are members of the UBCV – Thanh Tu Dao-chi linh:

Venerable Thich Hue Hien (Pham Van Co), 30 years old, the abbot of the Medicinal Monastery.
Sa di Thich Minh Thanh (Tran Van Sang), 20 years old
Sa di Thich Minh Hien (Pham Van Anh), 17 years old.
Thich Nu Dieu Phuoc (Nguyen Thi Tiep), 58 years old.
Thich Nu Dieu Dinh (Le Thi Thien), 54 years old.
Thich Nu Dieu Tanh (Le Thi Tam), 34 years old.
Thich Nu Dieu Hanh (Nguyen Thi Dao), 23 years old.
Thich Nu Dieu Truong (Duong Thi My Le), 23 years old.
Thich Nu Dieu Thien (Pham Thi Nuong), 22 years old.
Thich Nu Dieu Tot (Tran Thi Phuong), 17 years old.
Thich Nu Dieu Xuan (Le Thi Thu), 15 years old.
Thich Nu Dieu Nghiem (Le Thi Ut), 14 years old.

The statement left, the 12 monks and nuns stated: “We are about to perform the burnt-out to preserve the Dharma, to protect the name of the monks locally and nationwide … Their actions. Today I am the essence of bringing this body of flesh to make a torch to enlighten the unconscious confused, those with a wild animal heart ”…

To the disciples of Duoc Su Temple, Dai Duc Hue Hien admonished: “We should not be for this selfishness, we should not regret it, we should not cry over it. On the contrary, we must be proud that we have used it properly, used it for justice, for freedom … Remember no one saves us more than we save ourselves, no one sets us free by self-liberation. I “.

With regard to the communist government, Dai Duc Hue Hien, representing all monks and nuns of self-immolation, raised his 6-point aspiration and concluded: “We, the monks and nuns of Duoc Su pagoda, sincerely urge you to respect for the freedom of belief of all religions… We are determined to burn our bodies today because we think it is better to die gloriously than to live in disgrace, to die for the moral truth rather than to live by the evil doctrine of the people.

– http://tiengnoitudo.wordpress.com/2008/03/31/v%E1%BB%A5-an-12-tang-ni-thi%E1%BB%81n-en%E1%BB%87n-d % C6% B0% E1% BB% A3c-s% C6% B0-t% E1% BB% 89nh-c% E1% BA% A7n-th% C6% A1-t% E1% BB% B1-thieu-supply -luc-nam-1975-d% E1% BB% 83-t% E1% BB% 91-high-c% E1% BB% 99ng-s% E1% BA% A3n-da /

– http: // anhduong. info / joomla / index.php? option = com_content & task; = view & id; = 857 & Itemid; = 1

Before the great sacrifices of the monks and nuns of the UBCV, let me ask the state-owned monks and nuns know? The lofty sacrifice of the 12 Buddhist monks and nuns, unfortunately, did not have any support from the group. State Buddhist monks and nuns, showing us the insensitivity of these monks to their persecuted fellow believers.

What about Catholicism?

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=28%2f02%2f2008#52706
VietCatholic News (Thursday 28/02/2008 18:34):

“However, the Father Truong Ba Can group with the newspaper” Catholicism and the Nation “are communist special forces because they have been proud of this achievement. They also have articles praising the Communist Party and assisting the Vietnamese Church for over 30 years. For example, the two characters LM Nguyen Thien Toan and LM Phan Khac Tu also boast of their achievements to serve the communists.

… During the secret meeting of the CCCG two days past February 27-28, 2008, we highly welcome the change and intention to give up cooperation with the communists of a number of priests such as Fr Minh in Bac. Lieu, Fr. Phuc in Nha Trang, etc .. and nuns like Sister Nguyen Thi My (Bac Ai Vinh Son), Sister Mai Thanh (Duc Ba Lineage), etc.

With today’s modern media and media technology, the activities of Vietnamese clergy and priests working for communism are clear (now we have in hand a lot of records that lay people and parishes denounce with concrete evidence that some clergy have been and are working with communism, who have abused the communist authority to oppress the good people and run after their interests. and favors given by the Communists). We have not released these documents and will not publish them if they themselves and openly give up collaborating with the communists. We hope for a short time that priests and religious who are still cooperating with the Communists choose the path of returning to their true positions in the Church.

Likewise today, the bishops and the Vietnamese hierarchy should have a determined and decisive attitude, with a courageous stance that begins a process of cleansing the ranks and takes a hard attitude towards spirits. bishops or priests that the bishops know well are working for the communists must be vigilant to force them to return to a genuine priestly life, to give up the political path of henchman to the communists. This is the general stance and line of the Church, of the Vatican, that the modern Popes have spoken out. The Polish Bishops and the Episcopal Conferences of Eastern Europe are exemplary.

The Vietnamese bishops do not have to wait until the Vietnamese Communist regime disintegrates to speak up. They have a moral and spiritual responsibility as true pastors of the Church, needing courage to face the wounds that have paralyzed and undermined the Vietnamese Church in the past few decades. If the Vietnamese parishioners have shown their courage to stand up for truth and justice, then the bishops and clergy need to be courageous and set an example for the Vietnamese Catholic collective. They have no reason to surrender responsibility before conscience and before the Lord, when they are entrusted with the responsibility of leading, caring for, defending, preserving and exemplifying their flock. “

b- Being infiltrated by the enemy from the beginning: From Catholicism, Buddhism, Cao Dai, Hoa Hao, Protestants and political organizations have been placed in the organization by the Vietnamese communist. splitting religions with each other and the key to internal religions. The Vietnamese Communist Party allowed special officers to slip into places where they were suspicious.

http://www.vnagency.com.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/183251/Default.aspx

In Catholicism, the communist government places cadres in each province and district. “Mr. Huynh Dam expressed his wish that the bishop continued to encourage parishioners to well implement the policy of great national solidarity, religious work and especially actively participate in building a social rule of law. theism is increasingly clean and strong. Bishop Nguyen Van Sang emphasized that the President’s decision to award the Order of Great Solidarity to Thai Binh Diocese has brought excitement to Thai Binh priests, dignitaries and laity, because this is the case. recognition of the Party, State, and Front for the diocesan contributions in the cause of great national solidarity. “

http://www.vietnamexodus.org/vne/vnenews/thoisu/DANHSACHNHUNGGIAOSIHOPTACVOICHEDOVIETGIAN.htm

Below is a list of missionaries who have cooperated with the Vietnamese Communist regime. Central Committee of Vietnam Fatherland Front term 2004-2009.

APPOINTMENT

Member of Vietnam Fatherland Front Central
Committee Member of the Presidium of Vietnamese Catholic Solidarity
Committee Member of Advisory Council of Vietnam Fatherland Front Central
Committee Member of the Front Committee Vietnam Fatherland Ho Chi Minh City

   LINH MESSAGE NGUYEN CONG DANH

Member of Central Committee Vietnam Fatherland Front

Vice Chairman Ho Chi Minh City Vietnam Fatherland Front

Committee President of the Catholic Solidarity Committee Ho Chi Minh City

  LINH MU NGUYEN TAN KHANH
Chairman of the Committee for the Unity of Catholicism of Vietnam and

Women TU NGUYEN THI MY
Vice Chairman of Ho Chi Minh City Catholic Solidarity Committee.

  LINH PHU NGUYEN DUC HIEP
Chairman of the Catholic Solidarity Committee of Nam Dinh province.

    LINH MISS PHAN DINH SON
Chairman of the Catholic Solidarity Committee of Can Tho City.

  Spiritual Spirit of Wisdom
Dong Quang, Ha Hai, Ha Trung, Thanh Hoa.

  LIST OF COMMITTEE OF THE VIETNAMESE CONVERSION TRADE UNION (ie State-run Catholicism) IV (2002-2007)

No. Full name Address

1 Father Dinh Xuan An Temple of Phu Nhai, Xuan Phuong, Xuan Truong, Nam Dinh
2 Father Dang Cong Anh No. 142 Ngo May, City, Quy Nhon-Binh Dinh
3 Father Pham Dinh Bao, An Ton Church, Tan Hiep Commune B-Tan Hiep, Kien Giang.
4 Father Tran Minh Cam No. 229 Vo Thi Sau, District 3, Ho Chi Minh City
5 Father Truong Ba Can No. 370 The August Revolution, District 3, Ho Chi Minh City
6 Father Nguyen Cap Lang Lang-Tuy Church An-Phu Yen -05786550
7 Father Bui Trung Chau No. 381 Le Loi, Chau Doc Town, An Giang
8 Father Le Dinh Chien No. 202 Tran Cao Van, Da Nang City
9 Sister Ho Thi Chinh Lovers of the Cross Market
Shop , Ho Chi Minh City 10 Father Nguyen Van Chinh Tra Cage Church, Long My District, Can Tho Province.
11 Father Nguyen Tien Cu, Tuyen Quang Town Church, Tuyen Quang Province
12 Father Tran Xuan Cuong Vinh An Church, Duc Minh Commune, Dak Mil, Dac Lac
13 Father Nguyen Cong Danh No. 22B Xo Viet-Nghe Tinh, Ho Chi Minh City
14 Father Nguyen Tri Dung Le Son Church, Hoa Vang District-Quang Nam
15 Father Doan Thai Duc Rach Soi Church, Rach Gia Town Kien Giang Province
16 Father Nguyen Son Doai Phuoc Thao Church, Chau Thanh District, Tra Vinh,
17 Father Nguyen Kim Doan, Quarter 2, Tam To Ward, Bien Hoa City, Dong Nai Province.
18 Priest Nguyen Van Dong Duc An Church, Pleiku, Gia Lai
19 Father Tran Duc Hanh Thanh Son-Cao Bang Church
20 Sister Nguyen Thi Duc Hanh The Lovers of the Cross, Doai Commune, Nghi Dien, Nghi Loc Nghe An
21 Sister Phan Thi Hai of St. Paul’s Order, Da Nang City
22 Father Nguyen Van Hau Lam Son Church, Phuoc Hoa, Tan Thanh, Ba Ria-Vung Tau
23 Father Nguyen Duc Hiep Tu Trung Church, Hai Hau District, Nam Dinh Province
24 Father Mai Van Hoang Thai Yen Church Cong Chinh Commune, Hong Cong District, Thanh Hoa
25 Father Pham Duc Huong, Trang Dinh Church, Yen Loc Commune, Can Loc-Ha Province, Province
26, Ngo Van Huu, 39A Le Loi-Quarter 2-Ward 10 -BA Ria Vung Tau.
27 Father Dau Xuan Khanh Ngo
Am Church, Cam Giang, Cam Xuyen, Ha Tinh 28 Father Nguyen Tan Khoa No. 952 Phan Chu Trinh, Mailbox 45-Tam Ky Post Office, Quang Nam Province
29 Father Nguyen Van Khoi Nha Worshiping Cau Ro, Xua Nam ward, Vinh Nghe An city
30 Father Hoang Van Hom Nhat Tu, Nghia Hoa Commune, Nghia Hung Nam Dinh
31 Father Tran Van Lang, Tan Tai Church, Ninh Thuan Fatherland Front Committee of Ninh Thuan Province
32 Father Dinh Ngoc Le, Hanoi Church, p.13, Go Vap District, Ho Chi Minh City
33 Father Vu Thanh Lich Chau Son Church, Me Thuat City, Dak Lak Province
34 Father Tran Van Lien Tan Thach Church, Long Phu, Soc Trang
35 Father Nguyen Tan Loi Vinh My Church, Vinh Loi District, Bac Lieu Province
36 Father Pham Thanh Minh, Church of St. Joseph Lao Cong, 23/14 Hoc Lac, ward 8 My Tho, Tien Giang
37 Father Vu Khac Minh 198 Quang Trung – An Khe, Gia Lai
38 Father Nguyen Van Minh, Bung Church, Hung Dinh, Thuan An, Binh Duong
39 Father Nguyen Duc Muoi Kinh 3 Church, Tan Thanh, Tan Hung Tay, Cai Nuoc, Ca Mau province
40 Sister Nguyen Thi My 42 Tu Xuong, District 3, Ho Chi Minh City
41 Priest Le Van Nang Dinh Church Quan, Phu Quy Hamlet, Dinh Quan District, Dong Nai
42 Father Nguyen Nghia Ba Ngoi Church, Cam Ranh District, Khanh Hoa Province
43 Priest Pham Van Nhuong No. 9 Nguyen Thai Hoc, Da Lat, Lam Dong Province
44 Priests Phu Oanh Tinh Lam Church, Dai Hanh Commune, Quoc Oai, Ha Tay
45 Father Nguyen Vinh Phuc 0, Street 2/4 Vinh Phuoc, City. Nha Trang, Khanh Hoa Province
46 Sister Nguyen Thi Phuong Lovers of the Cross Bac Hai, Bien Hoa City, Dong Nai
47 Father Nguyen Van Quang Cai Bong Church, Ba Tri District, Ben Tre
48 Sister Vo Thi Ri of the Vietnamese Congregation, the Catholic Solidarity Committee of Can Tho Province
49 Father Nguyen Minh Sang, Head of the Cai Tau Church, Dong Thap
50, Phan Dinh Son, Church of St. Joseph, Thanh An, Thot Not, Can Tho
51 Father Vu Hung Son, Phong Coc Church, Thai Binh Commune, Chau Thanh, Tay Ninh
52 Father Vu Van Tan County Head, Thuy Giang Church, ward 10, Vung Tau City, Ba Province Ria-Vung Tau
53 Father Do Duy Than Poet of Phu song, Tam Binh district, Vinh Long
54 Fr. Nguyen Thu Thanh, Moc Hoa Church. Long An, Chairman of Long An Provincial Committee of the General Assembly of Council
55 LM. Tran Xuan Thao, Hanoi Church, Bien Hoa City, Dong Nai
56 LM. Dinh Tri Thuc Dong Quang Church, Hai Ha Commune, Ha Trung District, Thanh Hoa
57 LM. Nguyen Thien Toan Nhan Hoa Church, 38/24 Ho Dac Di Street, Ward 15 Tan Binh District, Ho Chi Minh City
58 Fr. Mai Van Ton Phu Huong Church, Du Quang Commune, Dai Loc, Quang Nam
59 Fr. Nguyen Van Trach Secretary bishops, Vinh Long diocese, Vinh Long province
60 Fr. Dinh Chau Tran 190 Le Van Si, Phu Nhuan District, Ho Chi Minh City
61 Fr. Nguyen Chu Trinh Chau Son Church, Nho Quan District, Ninh Binh Province
62 LM Ho Ngoc Tru Con Phuoc Church, My Luong, New Market, An Giang
63 LM Quang Minh Tuan An Loc Church, 474 Ngo Quyen, An Loc, Binh Long, Binh Phuoc 
64 Fr. Pham Van Tuyen Hung Yen Town Church, hung Yen province
65 Fr. Phan Khac Tu 413 Le Van Si, District 3 City. Ho Chi Minh City
66 Fr. Nguyen Phuoc Tuong Cai Lay Church, Cai Lay district, Tien Giang province
67 Fr. Nguyen Van Vinh, Quan Long Church, 74 Phan Dinh Phung, Ca Mau
68 Fr. Nguyen Van Vinh Hoa Thuan Church, Nha Trang Khanh Republic
69 Church Father Nguyen Van Binh Yen Phu, Quang Van, Quang Trach, Quang Binh
70 LM Khong Thanh Trieu German Italian Church, Chau Thanh district, Ben tre
– http://www.phattuvietnam.net/index.php? nv = News & at; = article & sid; = 2747

List of 147 members of the Board of Trustees (State-run Buddhism) and 48 alternate members. 1. Venerable Thich Tri Tinh (Ho Chi Minh City)
2. Venerable Thich Hien Phap (Ho Chi Minh City)
3. Venerable Danh Nhan Kien Giang Province
4. Venerable Thich Thanh Tu City. Hanoi
5. Venerable Thich Tu Nhon City. Ho Chi Minh
6. Venerable Duong Nhon Soc Trang Province
7. Venerable Thich Thanh Sam Bac Ninh Province
8. Venerable Thich Thanh Chinh City. Hanoi
9. Venerable Thich Duc Phuong Thua Thien Hue Province
10. Venerable Thich Tri Quang Tp. Ho Chi Minh

11. Venerable Thich Tu Thong Tp. HCM
12. Thich Dong Huy Ba Ria Vung Tau
13. Thich Thanh Duc Thai Binh Province
14. Venerable Thich Thien Duyen Quang Nam Province
15. Venerable Thich Thien Binh Khanh Hoa Province
16. Thich Tri Tam Khanh Hoa Province
17. Venerable Thich Chon Thien Thua Thien Hue Province
18. Venerable Thich Chanh Liem Quang Tri Province
19. Venerable Thich Thien Nhon Binh Dinh Province
20. Venerable Thich Thien Tu Ca Mau Province

21. Venerable Thich Nhu Niem City. Ho Chi Minh City
22. Venerable Thich Giac Vien City. Da Nang
23. Venerable Thich Dac Phap Vinh Long Province
24. Venerable Thich Dong Tam Ninh Thuan Province
25. Venerable Thich Tam Thuy Phu Yen Province
26. Venerable Tran Dang Tra Vinh
27. Venerable Thich Nhuan Thanh Binh Province Phuoc
28. Venerable Thich Phap Chieu Lam Dong Province
29. Venerable Thich Thien Thanh, Long An Province
30. Venerable Thich Chon Thanh, Binh Thuan Province

31. Venerable Thich Giac Toan City.
32. The Venerable Thich Thien Nhon, Ho Chi Minh City 32. HCM
33. Venerable Thich Giac Quang Hue Province
34. Thich Duc Thanh Hue Province
35. Venerable Thich Giac Dung Daklak Province
36. Thich Minh Thien Binh Duong Province
37. Thich Thong Nghiem Tay Ninh
38. Venerable Thich Nhut Hue Tra Vinh Province
39. Venerable Thich Thien Sanh Soc Trang Province
40. Venerable Thich Thien Phap Tp. Ho Chi Minh City

41. Venerable Thich Thien Tam City. Ho Chi Minh
42. Venerable Thich Thien Tanh City. Ho Chi Minh City
43. The Venerable Dao Nhu City. Can Tho
44. Venerable Thach Sock Sane Tra Vinh Province
45. Venerable Thich Hue Tai An Giang Province
46. ​​Venerable Monk Ly Sa Muoth Bac Lieu Province
47. Venerable Thich Tu Huong Gia Lai Province
48. Venerable Thich Hue Ha Bac Lieu Province
49. Venerable Thich Tinh Hanh City. HCM
50. Venerable Thach On Tra Vinh

51. Venerable increase it Soc Trang Province
52. Venerable Thach Huonl Soc Trang Province
53. Venerable Thich Giac Vinh Long About
54. Most Venerable Thich Thanh Dam Ninh Binh Province
55. Venerable Thich Thanh Bich Ha Tay Province
56. Venerable Thich Thanh Dung Bac Giang Province
57. Venerable Thich Nhat Quang City. Ho Chi Minh City
58. Venerable Thich Trung Hau Tp. Ho Chi Minh
59. The Venerable Ly San City. Can Tho
60. Venerable Thach Bau Tra Vinh Province

61. Venerable Thich Minh Chanh Dong Nai Province
62. Venerable Thich Thien Hue Dong Thap Province
63. Venerable Thich Hue Duc Hau Giang Province
64. Venerable Thich Luu Doan, Tra Vinh Province
65 Venerable Thich Huyen Thong Kien Giang Province
66. Venerable Thich Phuoc, French Republic Road
67. Venerable Danh Dong, Kien Giang Province
68. Venerable Thach Sen Tra Vinh
69. Venerable Danh Dinh Kien Giang Province

70. The Venerable Master Thich Nguyen Phuoc Binh Dinh Province
71. Venerable Thich Thien Tan Quang Tri Province
72. Venerable Thich Thanh Nhieu Tp. Hanoi
73. Venerable Thich Thanh Due City. Hanoi
74. Venerable Thich Gia Quang Tp. Hanoi
75. Lac Hanh Thich Quang Ngai Province
76. Venerable Hui Ming Tien Giang Province
77. Thich Nhut Tan Ben Tre Province
78. Venerable Thich Tri Hue City. Ho Chi Minh City
79. Venerable Thich Quang Tung Tp. Hai Phong
80. Venerable Thich Bao Nghiem City. Hanoi

81. Venerable Thich Thanh Dien City. Hanoi
82. Venerable Thich Ton That City. HCM
83. Thich Dat Dao City. Ho Chi Minh
84. Venerable Thich Thien Duc City. HCM
85. Venerable Thich Hanh Nam Dinh Nghiem
86. Venerable List Kien Giang Province Lan
87. Venerable Tra Vinh Diep Fresh
88. Venerable Chau Son Hy An Giang Province
89. Venerable Thich Hoang From Tien Giang Province
90. Venerable Danh Thiep An Giang Province

91. Venerable Thich Khe Chon, Thua Thien Hue Province
92. Venerable Thich Hai An, Thua Thien Province Hue
93. Venerable Thich Thien Thong An Giang Province
94. Venerable Thach Ha Ca Mau Province
95. Venerable Thich Minh Thien Long An Province
96. Venerable Son Ngoc Huynh, Vinh Long Province
97. Venerable Thich Thanh Nha Tp. Hanoi
98. Venerable Thich Thien Nguyen City. Da Nang
99. Venerable Thich Tri Thang, Quang Ngai Province
100. Venerable Thich Vien Quan Gia Lai Province

101. Venerable Thich Hue Thong Binh Duong Province
102. Venerable Thich Hue Hien Dong Nai Province
103. Venerable Thich Hue Truong City. Can Tho
104. Venerable Thich Thien Bao City. HCM
105. Buu Chanh Thich Dong Nai Province
106. Venerable Thich Tam Duc City. HCM
107. Thich Thien Ninh Thuan Tien
108. Venerable Thich Thanh Lien Hue Province
109. Thich Dat Tan City. HCM
110. Thich Quang Chau Daklak Province

111. Venerable Thich Quang Tinh Kontum
112. Venerable Thich Chon Nguyen Binh Dinh Province
113. Thich Thanh Phuc City. Hanoi
114. Venerable Thich Thanh Dat City. Hanoi
115. Venerable Thich Thanh Giac City. Hai Phong
116. Venerable Thich Thanh Hien Hung Yen Province
117. Dai Duc Danh Lung City. Ho Chi Minh
118. Venerable Thich Quang Ha Nam Dinh Province
119. Venerable Thich Thanh Chinh Ha Tay Province
120. Venerable Thich Tien Dat Ha Tay Province

121. Venerable Thich Tam Nhan Ha Nam Province
122. Venerable Thich Minh Tien City. Hanoi
123. Dai Duc Thich Duc Thien City. Hanoi
124. Venerable Thich Tam Duc Thanh Hoa Province
125. Venerable Thich Thanh Van Hai Duong Province
126. Venerable Thich Thanh Quyet Quang Ninh Province
127. Venerable Thich Thanh Quyet Thai Nguyen Province
128. Venerable Thich Minh Nghiem Province Phu Tho
129. Venerable Thich Quang Truyen Lang Son Province
130. Venerable Thich Thanh Phung, Bac Ninh Province

131. Venerable Thich Quang Tuan Dak Nong Province
132. Venerable Thich Thanh Phong City. Ho Chi Minh City
133. Thich Nu Ngoat Lien City. HCM
134. Ni female Thich Dam Nam Dinh province Franchise
135. Ni Hao Thich Dam City women. Hanoi
136. Thich Nu Trang Lien City. Ho Chi Minh City
137. Senior Nun Thich Nu Nhu Ngoc Tp. Ho Chi Minh
138. Nun Thich Nu Hue Tu City. HCM
139. nun Thich Nu Dam Ha Tay Province Science
140. Lay Vo Dinh Cuong City. Ho Chi Minh City

141. Lay Tu Tong Ho Cam City. Ho Chi Minh City
142. Lay Quang Quang, City. Ho Chi Minh
143. Layman Tran Tuan Man City. Ho Chi Minh
144. Professor Le Manh That City. HCM
145. Luong Gia Tinh City Layman. Ha Noi
146. Cuu Nguyen Thang Nhu Thua Thien Hue Province
147. Cu Bui Trong Cuong, Ha Tinh Province

PROSPECTOR

  1. Venerable Thich Hue An (Thua Thien Hue)
2. Venerable Thich Chi Dao (Quang Nam)
3. Venerable Thich Hue Minh (Ho Chi Minh City)
4. Venerable Thich Nhu Y (Khanh Hoa)
5. Venerable Chau Cut (An Giang)
6. Venerable Thich Minh Thong (Ho Chi Minh City)
7 Venerable Thich Nhu Tuoc (Vinh Long)
8. Venerable Thich Toan Duc (Lam Dong)
9. Venerable Danh Nhuonl (Kien Giang)

10. Venerable Thich Tu Tanh (Da Nang City}
11. Venerable Thich Nhu Quang (Binh Dinh)
12. Venerable Thich Vien Dat (Binh Dinh)
13. Venerable Thich Hanh Niem (Quang Nam)
14. Venerable Thich Giac Liem (Ho Chi Minh City)
15. Upper Thich Thanh Ngoc (Ho Chi Minh City)
16. Venerable Tra Kla Leng (Soc Trang)
17. Venerable Tang Xa Vong (Bac Lieu)
18. Venerable Ho Chanh (Ho Chi Minh City)
19. Venerable Venerable Phap Chat (Ho Chi Minh City)

20. Venerable Thich Le Trang (Ho Chi Minh City)
21. Venerable Thich Minh Thanh (Ho Chi Minh City)
22. Venerable Thich Giac Nhan (Tien Giang)
23. Venerable Thach Oai (Tra Vinh)
24. Venerable Thich Thien Tri (Ho Chi Minh City)
25. Venerable Thich Thanh Hung (Ho Chi Minh City)
26. Venerable Thich Nhat An (Ho Chi Minh City)
27. Venerable Thich Truyen Cuong (Ho Chi Minh City)
28. Venerable Thich Thien Hanh ( Ho Chi Minh City)
29. Dai Duc Ly Ve (Hau Giang)

30. Dai Duc Ly Hung (Can Tho)
31. Venerable Thich Thanh Huan (Hanoi)
32. Venerable Thich Minh Tri (Hanoi)
33. Venerable Thich Chieu Tang (Vinh Phuc)
34. Venerable Thich Minh Hien (Ha Tay)
35. Venerable Thich Tri Chon (Ho Chi Minh City)
36. Venerable Thich Minh Huy (Yen Bai)
37. Venerable Thich Tri Tho Lac (Ninh Binh)
38. Venerable Thich Duc Nguyen (Hoa Binh)
39. Venerable Thich Thanh Duong (Cao Bang)

40. Venerable Thich Thien Thanh (An Giang)
41. Venerable Thich Phuoc Nguyen (Ho Chi Minh City)
42. Venerable Thich Phuoc Nghiem (Tien Giang)
43. Venerable Thich Hue Khai (Dong Nai)
44. Dai Duc Thich Thien Minh (Ho Chi Minh City)
45. Venerable Quach Thanh Satthana (Ba Ria Vung Tau)
46. ​​Nun Thich Nu Hue Huong (Dong Nai)
47. Nun Thich Dam Nghiem (Hanoi)
48. Monk Ms. Thich Nu Tin Lien (Ho Chi Minh City)

-http: //www.phattuvietnam.net/index.php? nv = News & at; = article & sid; = 2709
List of members of the Standing Committee of the Vietnamese Buddhist Sangha (Buddha State Catholic Church) term VI (2007 – 2012)

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=53117

Vietnam Catholic Solidarity Commission and 10 paradoxes:

“- The noun Solidarity has misdirected because it shows a strong” divide “in their own group. Stomach, bureaucracy, and interest in “to have a private car, private driver”. Through 2 articles about the Hanoi Kham Su Court, they are blaming all crimes on the head of cadre Father Truong Ba Can. Opportunity to win each other’s rights?

– CBCVGVN (ie Catholic Quoc Doanh) does not live by energy to serve spirit, but by tax currency of 80 million Vietnamese people. A large amount of money from the people to this tiny group spoiled for waste. Of course the giver has the right to steer them. ”

– What will the fate of the Buddhist, Catholic, Cao Dai, Hoa Hao, Protestant state religion groups when the orthodox religions face fierce opposition to violence force them to give in. State religion reveals its original form as a tool of henchmen, tyrants who will talk directly to the mainstream religion.

In summary: It is a crime to be silent before the crimes of the communist, to be silent before the suffering of fellow believers. The actions of the State-owned Religion group in all religions: Buddhism, Catholicism, Cao Dai, Hoa Hao, and Protestants must be made public, so that all people in the country can express their disrespectful attitude towards this people but no longer have this humanity. Violence in turn is being exposed and condemned. It is impossible for these State-run religions to take pride in expensive cars, have their own drivers, pay the CS’s salary, get housing to serve the tyranny with the money of Vietnamese taxpayers.

c- Failure to agree and coordinate activities among mass organizations and religions:

When fighting for Freedom of Religion, the common goal is that all religions must be respected, so when there is a religion you are attacked or threatened, other religions must also speak out against, and let to unite religions and to put pressure on the government when they suppress one religion, they will be afraid of other religions agreeing to oppose their work. Passive, in order to protect its own religion from being persecuted, because after the persecution of this religion is complete, the Vietnamese Communist will turn to suppress the next religion. From the past 30 years, a passive solution, Silence of religions marks the success of the communist army. Spiritual support or advocacy is very rare, but do not expect to have a coordinated action among religions. Is it because religions oppose each other, or have different dispositions to fight? In fact, religions for decades have been used by the communist government to divide and rule, especially to divide religions, to divide within each religion, which they always consider as dangerous enemies of the regime. The coordination of the actions of religions, consensus will cause the communist to share their forces, be confused and passively have to reduce or eliminate religious persecution.

Sometimes, religious leaders also act suspiciously:

“On Saturday, May 10, 2008, GM Nguyen Chi Linh, Vice President of the Vietnam Bishops’ Conference, joined Archbishop Ngo Quang Kiet. , General Secretary of the Council, came to Hanoi Quan Su Pagoda to visit and congratulate dignitaries and fellow Buddhists on the occasion of the Vesak celebration, and at the same time presented congratulatory letters from the Vietnam Bishops’ Conference and the Association’s message The Vatican’s Interreligious Dialogue Council sends world Buddhists on this occasion.

… Does the Vietnamese Bishops’ Conference not know about this?

Or know but deliberately ignore, only deal with the Buddhist Church as allowed by the government, despite the dissatisfaction of another Buddhist, important, large and non-state?

How to create national solidarity and solidarity between religions?

… The minimum wisdom requires the clergy not to give the impression that priests are on one side in the fierce dispute between the two Buddhist factions at home and abroad.



Suppose if there was a certain religious message sent to the “fathers” of the Commission for Catholic and National Solidarity and not to the Episcopal Conference, what would they think? “

(http://www.luongtamconggiao.com/pages/tp.asp?topicID=3710&categoryID;=2&subcateID;=7)

d- There has not been a strong Struggle movement for international support:

Currently arguing Of many people in Hai Ngoai, please take a look at:

“We have to put ourselves in the position of people in the country, to see clearly how difficult they are when dealing with communist violence. What are fear of losing their jobs, being called out, shouted, intimidated, possibly imprisoned for a long time. Not to mention that they also use the law of the jungle for the dissolution of the gangsters, etc. … expats don’t have to face violence, they can freely say anything. Fighting in the country is miserable, I don’t know what to do with money. Overseas have to spend more than half to have a means of fighting! ”

Listening through it is also reasonable, having love. I agree that Overseas should support wholeheartedly with the spirit of materialism, but do not forget the essence:

– The fight for Democracy Freedom is mainly for the interests of the people in the country, not for overseas. . That is because the people of Vietnam can not live under the dictatorship, they must rise up.

– There is no easy struggle, nor can we ask for the Freedom, we have to save it with sweat and blood.

– There is aid to fight, so the motivation to fight is for money? It will lose their legitimacy and the communist will accuse them of fighting and accuse them of making money, especially foreign money.

The Revolutions in Eastern Europe in the 1990s had the financial contributions of the West and especially the United States, but mainly because of the people there was a desire to overthrow the Communist regime. The people who unanimously rebelled, not because of the money poured in. History has proven: revolutions in the world that do not have foreign support, no money to interfere, it is true Revolution. the struggles of the Tibetan people (tens of thousands of people), the commitment (hundreds of people died, thousands of people injured), students, all classes of Tibetans have made the World But not enough strength, if there is the support of hundreds of thousands, millions of Tibetans, then success! Because then the whole world sees the hearts of all Tibetans and they will join support for the disarmament of Tibet.

Every day the dictatorship in Vietnam was erased and the people concluded: It was a true Revolution, it was the will of the entire Vietnamese people (without any power intervention or push), With the sweat and blood of the entire people, without financial support (international or overseas) and still succeeding, that is the best wish of the Vietnamese Nation.

Long Dien May 28, 2008

Assessment of the domestic and overseas struggles after 33 years of separation our Nation.

Assessment of the domestic and overseas struggles after 33 years of separation our Nation.
Long Điền

 Wednesday, January 27, 2021 (translate by Google)Nhận Định Tình Hình Quốc Nội và Hải Ngoại sau 33 năm ly hương.
The NATIONAL, The Honor and The RESPONSIBILITY.  

The Nation is in danger of volunteering to
restore honor and pay the people
Everyone is RESPONSIBLE to shoulder
Democracy, Freedom to achieve!

Assessment of the domestic
and overseas struggles
after 33 years of separation our Nation.
In the fight for Free Democracy there are 2 components: Domestic and Overseas.

-The Homeland is the main force directly facing the enemy of Freedom and Democracy, which is the communist communist party. Foreign forces maintain the support. Spiritual and material support for the Homeland.




The spiritual support of Hai Ngoai includes:

-Exchanging and disseminating information and historical documents for people, especially young people and domestic students, so that they can fully understand the nature of selling the homeland and harming the people of the episode. The Vietnamese Communist delegation allowed the entire people to stand up and overthrow the tyranny as the revolutions in Eastern Europe were successful in the 1990s and past.

– Mobilized through media, contacted with Jewish countries to create support for the domestic struggle movement.

– Mobilization in all forms on temporary countries, especially the politicians, congressmen and lawmakers of the host country to support the legitimate struggle of the entire Vietnamese people.

-Use the media and newspapers that the Vietnamese overseas have and take advantage of the feelings of the international media to support the struggle in Quoc Noi …..

The spiritual support is main, the material support is secondary.Because the material support, the money is huge, but without consensus to accept the arduous struggle of the Homeland, it will not succeed.

The following is the assessment of us (the domestic and overseas fighting forces) and the enemy (the Vietnamese fighting in the communist army):

Assessing the enemy’s situation, we are very important in planning the way of fighting. Mainly to be honest, not because of the need for propaganda and movement, but in every aspect, it is good, perfect, not acceptable. Weaknesses or weaknesses to correct. Also, not because of the strong enemy pressure in a certain period, but quickly pessimism, disorientation or slack. If you dare to straightforwardly claim the shortcomings, then a plan for adjustment is planned. Honestly recognizing the achieved results is to seize the opportunity, proceed to exploit the enemy’s weaknesses to fight.

Therefore this article is not suitable for those who are acquainted with each other, praising perfect achievements. Judging from the enemy’s situation and you are right, the plan for the next 3.5 years will focus on, prioritizing which side to face, which side is only secondary, the fight for Freedom and Democracy for Vietnam is a common need for the Vietnamese people at home and abroad, not just for one party. Making an objective judgment is the subject of the article and then the part to formulate specific plans for the future of domestic and foreign organizations, religions, and political parties. will contribute to the Work of Disarmament

Part I – Achievements:

In the past 33 years, it is fair to say that we (domestic and foreign ceramics) have achieved great results in many aspects of the fight thanks to the contribution that sacrifices the hardships of the people in the country, plus the material and spiritual support of the overseas people, including the great contributions of the national associations, the Communities, the associations and the overseas religions. of elected people, foreign politicians for human conscience have helped us in many ways to expel the brutal dictatorship that is harshly governing the Vietnamese people.

Mainly this article is about the struggle activities in the domestic, the results of the struggle over sea will be presented next time. The following are activities of domestic organizations in the past 33 years: A- Block 8406 and Party Thang Tien:



Father Nguyen Van Ly Block 8406



The revolutionaries of the early 20th century: Nguyen Thai Hoc, Phan Chau Trinh,Phan Boi Chau.
The revolutionaries of the early 21st century: Nguyen Vu Binh, Pham Hong Son, Le Thi Cong Nhan, Thich Quang Do, Nguyen Van Ly, Nguyen Van Dai, Do Nam Hai …

From a claim to Freedom and Democracy, which had only 118 members since April 2006, 1951 people have joined after 2 months. According to the most recent detailed list, published on 4 year. 2008, the public membership number has risen to 3702 members. In addition, Bloc 8406 also has 3881 members who are openly Vietnamese living abroad, along with 139 international politicians including representatives of organizations, 50 members of the Charter 77 Czechoslovakia and 50 people. US Congressman and Congressman. The number of supporters of Bloc 8406 today worldwide enrolling in many places has reached tens of thousands of people. The total number of policemen arrested includes: Number of people being convicted of 18 people, 8 people arrested without trial, 5 people have been detained and released. (As of 8.4.2008)

http://hoatdongcuakhoi8406.blogspot.com /2008/04/danhsachcacnannhanluongtam.html)
The list of victims of conscience arrested and abused.

Up to now, nearly 720 newspapers of the Vietnamese Communist Party have not reported about Bloc 8406, people in the country have no idea who Bloc 8406 is and what it is for, but through trial trials. They have to declare their crimes and penalties, so that nowadays almost all Vietnamese people know about Bloc 8406. Through that, the world knows about the political situation in Vietnam that is the Communist government that oppresses the opposition. legal and non-violent. The number of international congressmen, parliamentarians and politicians is increasingly supportive, and they understand well the true face of the Vietnamese Communist Party’s bluff propaganda.

Nhận định tình hình đấu tranh Quốc Nội và Hải Ngoại sau 33 năm ly hương (2008)

Nhận định tình hình đấu tranh Quốc Nội và Hải Ngoại sau 33 năm ly hương (2008)

 TỔ QUỐC DANH DỰ TRÁCH NHIỆM

TỔ QUỐC lâm nguy nguyện dấn thân
Phục hồi DANH DỰ trả toàn dân
Mọi người TRÁCH NHIỆM chung vai gánh
Dân Chủ, Tự Do quyết đạt thành!

Nhận định tình hình đấu tranh
Quốc Nội và Hải Ngoại
sau 33 năm ly hương
Trong công cuộc đấu tranh cho Dân Chủ Tự Do có 2 thành phần :Quốc Nội và Hải Ngoại.

-Quốc Nội là lực lượng chính yếu trực diện với kẻ thù cuả Tự Do Dân Chủ là bè lủ CSVN. Lực lượng Hãi Ngoại giử phần yểm trợ.Yểm trợ tinh thần và vật chất cho Quốc Nội .




Yểm trợ tinh thần cuả Hải Ngoại bao gồm :

-Trao đổi,phổ biến tin tức,tài liệu lịch sử cho người dân , đặc biệt là thanh niên,sinh viên quốc nội để họ hiểu rỏ thực chất bán nước,hại dân của tập đoàn Việt Gian CSVN để toàn dân đứng lên lật đổ bạo quyền như các cuộc Cách mạng tại Đông Âu đã thành công trong thập niên 90 vưà qua.

-Vận động qua truyên thông,tiếp xúc với các quốc gia Tư Do để tạo sự ủng hộ cho phong trào đấu tranh trong nước.

-Vận động bằng mọi hình thức trên các quốc gia tạm dung,nhất là các chính khách,dân biểu,nghị sĩ quốc gia sở tại ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghiã của toàn dân VN.

-Dùng các phương tiện truyền thông ,báo chí mà người Việt Hải Ngoại đang có và tranh thủ cảm tình cuả giới truyền thông quốc tế ủng hộ công cuộc đấu tranh tại Quốc Nội…..

Yểm trợ tinh thần là chính,yểm trợ vật chất là phụ.Bởi vì yểm trợ vật chất,tiền của bao lớn,nhưng nếu không có sự đồng tâm chấp nhận đáu tranh gian khổ của đồng bào Quốc Nội thì sẽ không thành công.

Sau đây là phần nhận định về ta (lực lượng đấu tranh Quốc Nội và Hải Ngoại )và địch (bọn Việt gian CSVN):

Nhận định tình hình địch,ta rất quan trọng trong hoạch định đường lối đấu tranh.Chủ yếu là phải nhận định trung thực,không vì nhu cầu tuyên truyền ,vận động mà mặt nào cũng cho là tốt,hoàn hảo, không chấp nhận những điểm yếu hoặc kém để sửa chữa .Cũng không vì áp lực địch mạnh trong giai đoạn nào đó mà vội bi quan,mất phương hướng hay chùng bước.Có dám thẳng thắng nhận khuyết điểm thì mới có kế hoạch điều chỉnh. Ghi nhận trung thực thành quả đã đạt được là để chớp thời cơ, tiến lên khai thác chổ yếu cuả địch mà đánh.

Do đó bài viết nầy không thích hợp cho những ai quen vái nhau,ca tụng thành tích hảo. Nhận định tình hình địch và bạn đúng thì kế hoạch đưa ra cho 3,5 năm tới sẽ đặt trọng tâm, ưu tiên đánh vào mặt nào,mặt nào chỉ là diện ,là thứ yếu.Công cuộc đấu tranh cho Tự Do dân Chủ cho Việt Nam là nhu cầu chung cho đồng bào Việt Nam ở quốc nội và hải ngoại ,không chỉ riêng cho 1 bên nào . Đưa ra nhận định khách quan là chủ đề của bài viết và sau đó là phần thiết lập kế hoạch cụ thể cho tương lai là của các đoàn thể ,tôn giáo, đảng phái chính trị trong và ngoài nước.Mong sao những ý kiến chia sẻ sẽ góp phần trong công cuộc Giải Trừ Cộng Phỉ

Phần I-Thành quả đạt được:

Trong 33 năm qua công bằng mà nói chúng ta (bao gốm quốc nội và haỉ ngoại ) đã đạt được những thành quả lớn về nhiều mặt trận đấu tranh nhờ vào sự góp sức đấy hy sinh gian khổ của ngưới dân trong nước ,cộng với sự hỗ trợ vật chất lẩn tinh thần cuả đồng bào hải ngoại , trong đó có sự đóng góp lớn cuả các đoàn thể Quốc Gia,các Cộng Đồng,,các hội đoàn và các tôn giáo Hải Ngoại .Không quên những đóng góp lớn lao cuả các vị dân cử ,chính khách ngoai quốc vì lương tâm nhân loại đã trợ giúp chúng ta trên nhiều phương diên để đành đuổi chế độ độc tài tàn bạo đang cai trị hà khắc dân Việt Nam .

Chủ yếu bài nầy nói về các hoạt động đấu tranh tại Quốc Nội ,phần kết quả đấu tranh Haỉ Ngoại sẽ trình bày lần sau.Sau đây là hoạt động cuả các tổ chức đấu tranh trong nước trong thời gian 33 năm qua: A-Khối 8406 và đảng Thăng Tiến :



Linh Mục Nguyễn Văn Lý Khối 8406



Các nhà cách mạng đầu thế kỷ 20 : Nguyễn Thái Học, Phan Châu Trinh,Phan Bội Châu.
Các nhà cách mạng đầu thế kỷ 21 : Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Công Nhân, Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài, Đổ Nam Hải…

Từ 1 tập thể đấu tranh đòi hỏi cho Tự Do Dân Chủ chỉ có 118 thành viên kể từ tháng tư năm 2006, sau 2 tháng đã có 1951 người tham gia .Theo danh sách chi tiết gần đây nhất, , công bố ngày 4 năm 2008, số thành viên công khai đã lên đến 3702 thành viên . Ngoài ra, Khối 8406 cũng đã có 3881 thành viên công khai là người Việt đang sinh sống ở nước ngoài, cùng với 139 chính khách quốc tế bao gồm đại diện các tổ chức, 50 nhân sĩ thuộc Hiến chương 77 Tiệp Khắc và 50 dân biểu, nghị sĩ Hoa Kỳ. Số người ủng hộ khối 8406 hiện nay trên toàn thế giới ghi danh nhiều nơiđã lên đến hàng vạn người. Tổng số thanh viên bi bắt gồm :Số người bi kết án 18 người,bắt chưa xét xử 8 người,5 người đã bi giam gìử và được thả.(tính đến ngày 8.4.2008)

http://hoatdongcuakhoi8406.blogspot.com/2008/04/danhsachcacnannhanluongtam.html)
Danh sách nhũng nạn nhân lương tâm bị bắt và bị sách nhiểu .

Từ trước tới nay gần 720 tờ báo cuả đảng CSVN trong nước không hề đưa tin về Khối 8406,người dân trong nước cũng không hề được biết Khối 8406 là những ai và hoạt động với mục đích gì,nhưng qua các phiên toà xét xử họ phải công bố tội trạng và hình phạt,nhờ đó mà hiện nay gần như toàn thể người dân VN thảy đều biết về Khối 8406.Qua đó thế giới mới biết đến hiện tình chính trị tại VN là chính quyền CS đàn áp đối lập hợp pháp và bất bạo động .Số dân biểu,nghị sĩ và các nhà chính trị quốc tế ngày càng ủng hộ đông đảo và họ đã hiểu rỏ bộ mặt thật cuả đảng CSVN đã tuyên truyền láo khoét như thế nào.

Thành tích về hoạt động nổi bật cuả Khối 8406 tại Quốc Nội và Quốc Tế sau 2 năm thành lập :

– Xem bài chi tiết nơi trang web :
(/_http//tongquatblogspotcom/2008/04/tintuclienquankhoi8406.html)

– (/_http//tongquatblogspotcom/2008/04/tintuclienquankhoi8406.html)

-Nhận định về khối 8406 :một số tổ chức quốc tế, trong đó có Quốc hội Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Ân xá Quốc tế, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Phóng viên Không biên giới, đã lên tiếng phản đối việc Lê Thị Công Nhân bị bắt giữ và xét xử. Các tổ chức này này kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho hai người và một số nhân vật bất đồng chính kiến khác. Những tổ chức này cho rằng việc bắt bớ các nhân vật đối kháng bất bạo động là vi phạm quyền tự do ngôn luận và hội họp, những quyền được hiến pháp Việt Nam bảo vệ trong điều 69và được bảo đảm theo công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời, họ cho rằng việc xét xử các nhân vật bất đồng chính kiến là theo kiểu các tòa án ở Liên Xô thời Stalin, chỉ là hình thức mà thôi Xem bài chi tiết về L/S Lê Thị Công Nhân thuộc Khối 8406 cuả Bách Khoa Toàn Thư Quốc Tế Wikipedia :

(http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Th%E1%BB%8B_C%C3%B4ng_Nh%C3%A2n )

Nữ Luật Sư Lê Thị Công Nhân, tù nhân lương tâm đang bị nhà chế độ Hà Nội bỏ tù tại Việt Nam vì đấu tranh cho quyền làm người, được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (MLNQVN) đề cử cô cho giải thưởng nhân quyền Gwangju năm 2008.

( http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task;=view&id;=1449&Itemid;=362 )

– Kỹ sư Đỗ Nam Hải và giáo sư Nguyễn Chính Kết, hai nhà dân chủ của Khối 8406 ở quốc nội đã được Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ quyết định trao giải thưởng Nhân Quyền Việt Nam 2006, và buổi lễ trao giải sẽ được tổ chức tại California .

– Dân biểu Sanchez đệ nạp một dự luật để tuyên dương Khối 8406 (08-04-2008)

– Kỷ niệm hai năm ngày thành lập Khối 8406, Đồng bào hải ngoại ủng hộ Dân Chủ, Nhân Quyền cho Việt Nam (Lam Thu Van, 08-04-2008)

– Thư Nghị sĩ Ray Halligan, Quốc Hội Tây Úc gửi Các Đại diện Khối 8406 (24-07-2006)

-Thư Ủng Hộ Tuyên Ngôn DÂN CHỦ TỰ DO ngày 8-4-2006 và Lời Kêu Gọi ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC XÂY DỰNG LẠi ĐẤT NƯỚC ngày 15-4-2006 (18-07-2006)

-Thư của tập thể 50 công dân tỉnh Thái Bình tình nguyện ký tên vào bản Tuyên ngôn Tự do Dân chủ 2006 (04-06-2006)

– 50 Nhân sĩ gồm Cựu tổng thống Václav Havel & 49 Nhân sĩ Hiến chương 77 Tiệp Khắc ủng hộ Tuyên ngôn TDDC cho VN 2006 (23-05-2006)

-Cựu tổng thống Václav Havel và Nhóm Hiến Chương 77 ủng hộ Tuyên ngôn 2006 (23-05-2006) – Lời Kêu Gọi Yểm Trợ Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 08/4/2006 của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu (Cộng Đồng Úc Châu, 12-05-2006)

– Dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ sát cánh với các nhà dân chủ Việt Nam (09-05-2006)

-Open Letter to Vietnamese citizens supporting the Appeal for Freedom of Political Associationnd the Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam (09-05-2006)

– Những Anh Hùng Việt Nam (Thư của Thượng Nghị Sĩ Gary Humphries gửi Lm Nguyễn Văn Lý) (05-05-2006)

– Ủy Ban Thụy Sĩ – Việt Nam Ủng Hộ Tuyên Ngôn Dân Chủ Việt Nam (Thierry Oppikofer, 04-05-2006)

-Bản Lên Tiếng Của Các Tổ Chức : Cộng Đồng – Hội Đòan – Đòan Thể Chính Trị Truyền Thông Báo Chí Và Giới Trẻ Tiểu Bang Washington ủng Hộ Tuyên Ngôn Tự Do, Dân Chủ 8406 Tại Quốc Nội (30-04-2006)

– Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam Tuyên Bố ủng Hộ Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ 8406 Cho Việt Nam (30-04-2006)

-Hội thánh Cơ đốc Phục lâm An thất nhật Tuyên bố gia nhập Hiến chương 8406 (15-04-2006)

-Bản Lên Tiếng của 169 Bác Sĩ, Dược Sĩ và Nha Sĩ Việt Nam ở nhiều quốc gia về bệnh trạng của anh Lê Chí Quang .Nhân ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 năm 2002.

(http://www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen.htm#Bản_Lên_Tiếng_của_169_Bác_Sĩ,_Dược_Sĩ_và_Nha_Sĩ_Việt_Nam_ )

-QUỐC HỘI CHUNG CHÂU ÂU VĨNH VIỄN NHỐT CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀO “BẢO TÀNG TỘI ÁC CHỐNG NHÂN LOẠI” CÙNG VỚI CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file;=article&sid;=420

NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU HAI :
“…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ XX và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn cầm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền. Những vi phạm này tuy khác nhau về cấp độ văn hoá, về ranh giới quốc gia, cũng như tùy giai đoạn lịch sử nhưng đều có chung những cuộc giết người tập thể, ám sát, thủ tiêu cá nhân không cần xét xử, biến đất nước thành trại tập trung với sự đầy đọa con người về thể xác cũng như tinh thần : tra tấn, nô lệ hoá, lao động khổ sai, tù đầy, khủng bố tập thể, ngược đãi, ám sát vì lý do chủng tộc, tôn giáo, chính kiến; vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí, tự do chính trị, độc tôn, độc quyền, độc đảng…”

NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU BA :
“ Những tội ác được biện minh nhân danh chủ thuyết đấu tranh giai cấp, chuyên chế vô sản. Sự bao biện cho hai nguyên lý cai trị cộng sản trên đã hợp thức hoá việc thủ tiêu hàng triệu người bị cho là có hại cho xã hội chũ nghĩa, những người bị gán cho là phản động, kẻ thù giai cấp. Hầu hết nạn nhân chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó. Điển hình là những tội ác sát nhân ghê rợn ở Liên Xô, Đông Âu cũ và các quốc gia cộng sản khác…”

NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU NĂM :
“Sự sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô chưa được điều tra kỹ lưỡng bằng tổ chức quốc tế để thống kê hết tội ác của cộng sản, đặng đưa tác giả của những tội ác tày trời này ra xét xử trước cộng đồng nhân loại, như từng đưa bọn phát xít quốc xã ra tòa…”

NGHỊ QUYẾT 1481, ĐIỀU CHÍN :
“Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để bao biện, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…” đây là nghị quyết quan trọng và căn bản để toàn thể nhân loại và người Việt Nam đứng lên dẹp chế độ độc ác CS VN

-Việt Nam xếp hạng 178/195 trên thế giới về tự do báo chí – Thiện Giao, phóng viên đài RFA 2008-05-03

Tổ chức Freedom House vừa công bố bản phúc trình thường niên về tự do báo chí trên toàn thế giới năm 2007. Nhận định chung là mức độ tự do báo chí toàn cầu giảm dần trong 6 năm liền. Theo phúc trình này, Việt Nam xếp hạng 178 trên 195 quốc gia được khảo sát, và thuộc vào nhóm “không có tự do.”

( http://ykien0711.blogvis.com/2008/05/03/vi%e1%bb%87t-nam-x%e1%ba%bfp-h%e1%ba%a1ng-178195-tren-th%e1%ba%bf-gi%e1%bb%9bi-v%e1%bb%81-t%e1%bb%b1-do-bao-chi/ )

-Quốc hội Hoa Kỳ điều trần về tình hình nhân quyền tại Việt Nam .
RFA 11.05.2008

Buổi điều trần về tình hình nhân quyền tại Việt Nam sẽ được tổ chức tại Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày thứ Tư 14 tháng 5 tới đây.Cho chúng ta thấy sự quan tâm đặc biệt của Quốc Hội Hoa Kỳ về Nhân Quyền tại VN :

(http://www.rfa.org/vietnamese/VietnameseNews/vietnamnews/Congressional_Caucus_on_Vietnam_holds_hearing_on_HumanRights-05112008121850.html?searchterm=None)

-Bản lên tiếng ủng hộ Phong Trào Tuổi Trẻ VN với Hoàng sa Trường sa do 60 đoàn thể,tổ chức Hải Ngoại ký tên ngày 24.4.2008 : đây là bản lên tiếng có nhiều đoàn thể ,tổ chức có uy tín nhất ở Hải Ngoại để ủng hộ việc làm của giới trẻ Quốc Nội .

Chính Đảng:

1- Đại Việt Cách Mạng Đảng (Bùi Diễm, CT).
2- Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Đỗ Thành Công, Phát Ngôn Nhân).
3- Đảng Tân Đại Việt (Nguyễn Ngọc Sẳng, CT).
4- Đảng Thăng Tiến VN (Nguyễn Ngọc Hùng, Đại diện).
5- Đảng Vì Dân (Nguyễn Công Bằng, Tổng Thư Ký).
6- Hiệp Hội Dân Chủ và Phát Triển VN (Âu Dương Thệ, Chủ Tịch).
7- Hiệp Hội Dân Chủ Pháp Trị Hiến Định Đa Nguyên (Đào Tăng Dực, Chủ Tịch).
8- Liên Minh Dân Chủ Việt Nam (Nguyễn Quốc Nam , CT).
9- Nghị Hội Toàn Quốc Người Việt Tại Hoa Kỳ (Nguyễn Ngọc Bích, CT).
10- Tổ Chức Dân Chủ Việt Nam (Phạm Hoàng , CT ).
11- Tổ Chức Phục Hưng Việt Nam (Trần Quốc Bảo, CT).
12- Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng (Đỗ Hoàng Điềm, CT).
13- Việt Nam Quốc Dân Đảng (Trần Phúc Yên, CT Hội Đồng Điều Hợp Các Cơ Sở VNQDĐ tại Hải Ngoại)

Chuyên Biệt:
1- Ban Vận Động Lời Kêu Gọi Dân Chủ (Phạm Đông Các, Đại diện).
2- Đoàn Thanh Niên Hồn Việt (Nguyễn Đình Nhu, Đoàn Trưởng, Ban Chấp Hành Trung Ương).
3- Gia Đình Quân Cán Chánh VN Cộng Hoà tại Hoà Lan (Lê Quang Kế, Đại diện).
4- Hội Ái Hữu Sĩ Quan Trừ Bị Colorado (Hồ Thanh Danh, Hội Trưởng).
5- Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN (Phạm Trần Anh, Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Hải Ngoại).
6- Hội Đồng Hương Phú Quốc (Trần Tuấn Quốc, Hội Trưởng).
7- Hội Chiến Sĩ QLVNCH tại Austin và Vùng Phụ Cận (Đỗ Văn Phúc, Hội Trưởng).
8- Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Ontario , Canada (Nguyễn Văn Tấn, Chủ Tịch).
9- Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH Vương Quốc Bỉ (Nguyễn Đức Hồ, Chủ Tịch).
10- Hội Cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức, Ontario, Canada (Trần Quốc Thiện, Chủ Tịch.
11- Hội Phụ Nữ Vì Nhân Quyền VN (Jane Đỗ Bùi, Đại diện). 12- Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia VN Pennsylvania và Phụ Cận (Đỗ Đức Chiến, Hội Trưởng).
13- Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị – DFW, TX (Trần Văn Chính, Chủ Tịch Khu Hội).
14- Liên Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Âu Châu (Phạm Thìn, Liên Hội Trưởng).
15- Liên Hội Cựu Chiến Sĩ QLVNCH Vùng Thủ Đô HTĐ và Phụ Cận ( Đoàn Hữu Định, Chủ tịch).
16- Liên Hội Chiến Sĩ VN Cộng Hòa DFW, TX (Phạm V. Chất, Liên Hội Trưởng).
17- Mạng Lưới Nhân Quyền VN (Nguyễn Thanh Trang, Trưởng Ban Phối Hợp). 18- Nhóm Liên Hướng Texas (Lê Lương, Nhóm Trưởng).
19- Nhóm Thanh Niên Thiện Chí Hoà Lan (Lưu Phát Tấn, Đại diện).
20- Nhóm Vinh Danh Cờ Vàng Hòa Lan (Nguyễn Trung Cang, Đại diện). 21- Phong Trào Hưng Ca VN (Huỳnh Lương Thiện, Phong Trào Trưởng).
22- Phong Trào Giáo Dân VN Hải Ngoại (Đỗ Như Điện, Điều Hợp Viên).
23- Phong Trào Quốc Dân Đòi Trả Tên Sài Gòn (LM Nguyễn Hữu Lễ, Đại diện).
24- Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang Boston, MA (Lâm Thành Hiếu, Trung Tâm Trưởng).
25- Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang Oakland, CA (Nguyễn Khắc Chương, Trung Tâm Trưởng).
26- Trung Tâm Việt Ngữ Văn Lang San Jose, CA (Lê Phước Tuấn, Trung Tâm Trưởng).
27- Tổng Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH tại Úc Châu (Nguyễn Hưng Đạo, Chủ Tịch).
28- Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động VN (Trần Ngọc Thành, CT).
29- Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn và Người Việt Tự Do tại Pháp (Nguyễn Phúc Tửng, TTK)

Cộng Đồng:
1- Cộng Đồng VN Hoa Kỳ (Nguyễn Văn Tần , CT HĐĐB; Nguyễn Bác Ái , CT HĐCH; Trương Ngọc Tích, CT HĐGS).
2- Liên Hội Người Việt Canada (Ngô Văn Út, Tổng Thư Ký).
3- Cộng Đồng VN tại Bỉ (Lê Hữu Đào, Điều Hợp viên).
4- Cộng Đồng VN Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoà Lan (Đào Công Long, CT).
5- Cộng Đồng VN Vùng Washington, DC, Maryland và Virginia (Lý Văn Phước, CT).
6- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas, TX (Thái Hóa Tố , CT ).
7- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Đông Bắc Pennsylvania , PA (Đỗ Đức Chiến, Phát Ngôn Nhân).
8- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Fort Worth, TX (Nguyễn Xuân Hùng, CT).
9- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Houston, TX (Hoàng Duy Hùng, CT).
10- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Lancaster PA và Vùng Phụ Cận, PA ( Lê Văn Chiếu , CT ).
11- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Michigan , MI (Phạm V. Thanh , CT ).
12- Cộng Đồng VN Bắc California , CA (Nguyễn Ngọc Tiên , CT ).
13- Cộng Đồng VN New Hampshire , NH (Cao Xuân Khải , CT ).
14- Cộng Đồng VN Iowa (Phạm Cang , CT ).
15- Cộng Đồng VN Oregon (Nguyễn Bác Ái , CT ).
16- Cộng Đồng VN Tampa Bay , FL (Vũ Đình Vượng , CT ).
17- Cộng Đồng VN Thống Hợp Georgia (Ngô Thanh Lâm , CT ).
18- Cộng Đồng VN Tiểu Bang Florida (Bà Đồng Thanh, CT Ủy Ban Chấp Hành – Chu Bá Yến , CT Hội Đồng Đại Biểu).
19- Cộng Đồng VN tại Liège, Bỉ (Lê Hữu Đào, CT).

(http://tudongonluan.atspace.com/50/banlentieng.html ),

-Kháng thư số 21 cuả Khối 8406 trước những đàn áp thô bạo cuả CSVN từ ngày 29.4 .2008

Để chuẩn bị bầu khí, hay nói theo ngôn ngữ cộng sản, để “lập thành tích chào mừng” ngày thống nhất đất nước 30-04, ngày rước đuốc Thế vận Bắc Kinh 29-04, ngày đại lễ Tam hợp Vesak 13-05-2008, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã thực hiện hàng loạt những cuộc đàn áp thô bạo nhắm vào mọi thành phần nhân dân trong nước.

(http://tudongonluan.atspace.com/51/khangthu21.html )

B-Công đoàn Độc Lập :



Hàng ngàn công nhân đình công vì lương không đủ sống.



Công Nhân VN bị đánh đập dã man khi đình công Dù chưa có thành tích nào đáng kể vì bị đàn áp ,trù dập dã man ,nhưng sự thành lập Công Đoàn Độc Lập tại Việt nam đã có sự ủng hộ mạnh mẻ cuả các quốc gia Tự Do , đặc biệt là Ba Lan ,Tiệp Khác và các quốc gia vưà thoát khỏi gông cùm CSQT năm 1989 vùng Đông Âu. Đây là bước đầu thành hình một tổ chức công khai bênh vực quyền lợi công nhân dù bị đàn áp nặng nề.Công nhân trong nước dù chưa được Công Đoàn Độc Lập can thiệp vì cơ chế công đoàn quốc doanh đã từ lâu ngự trị tại VN và bạo quyền CSVN chưa hề công nhận CĐĐL.Công đoàn hiện nay phải hoạt động bí mật như Công Đoàn Đoàn Kết của Ba Lan trước kia.Ghi nhận sự ra đời của Công Đoàn Độc Lập là 1 thắng lợi ,tuy chưa to lớn của công nhân VN .

C-Cao Trào Nhân Bản :



Bác sĩ Nguyễn Đan Quế

Do bác sĩ Nguyễn Đan Quế thành lập ngày 11.tháng 5 năm 1990 cùng với các bạn cùng chí hướng để đấu tranh cho Tự Do và Dân Chủ cho VN sau thời gian bi CS bắt năm 1978 cùng với 78 người đồng chí trong tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Tiến Bộ.Cao Trào Nhân Bản cuả ông hiện nay rất được nhiều chính khách quốc tế và Hoa Kỳ ủng hộ. Đặc biệt ngày 11.5.1990 ngày thành lập Cao Trào Nhân Bản của Ông Quế được TT Hoa Kỳ chọn đó là ngày Nhân Quyền Cho Việt Nam .

-Ngày 20.9 .2006 trả lời cho đề nghị thành lập Liên Minh các Lực Lượng đòi Tư Do và Dân Chủ cho VN cuả Khối 8406 , ông Quế đã nhiệt liệt hoan nghinh và mong mỏi tiến hành Liên Minh để tranh đấu hữu hiệu hơn. Đây là thành quả cuả các Lực Lượng tranh dấu muốn ngồi lại với nhau để lật đổ bạo quyền CS.Rất tiếc sau đó việc kết hợp cụ thể chưa tiến hành theo như mong đợi của toàn dân VN.Tuy nhiên phải thấy được sự ũng hộ của Cao Trào Nhân Bản cuả các chính khách quốc tế rất có lợi cho phong trào đấu tranh cuả toàn dân VN trong tương lai.

Việc bắt giử B/S Nguyễn Đan Quế đã khiến một số quốc gia phản đối chính quyền CSVN như sau :
(http://tudongonluan.atspace.com/51/khangthu21.html )

(http://rallyingfordemocracy.org/ctnb/NEWS_vn/20030409_TinBoNgoaiGiaoHoaKy.htm)

-Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chính thức phản đối việc Cộng Sản Việt Nam bắt giữ Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và các nhân vật bất đồng chính kiến: Song song với những phản đối của các giới chức lâp pháp, hành pháp, các tổ chức nghiệp đoàn và nhân quyền trên khắp thế giới, giới truyền thông báo chí đã cùng nhau nhất loạt lên tiếng phản đối việc bắt giữ bất hợp pháp BS Quế. Chỉ đúng một ngày sau BS Quế bị bắt đài phát thanh Tự Do Á Châu đã loan tin vào sáng ngày 18 tháng 3 bản tin và bài bình luận về vụ bắt giữ BS Quế, tiếp theo các đài BBC , đài Tiếng Nói Hoa Kỳ(VOA),hãng Thông Tấn Reuter, AFP, AP… và các đài Việt Ngữ ở khắp năm châu đã liên tiếp loan tin, bình luận chỉ trích việc bắt giam trái phép BS Quế.

– LIÊN HIỆP QUỐC LÊN ÁN CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAM GIỮ ĐỘC ĐOÁN VÀ TRÁI PHÉP BÁC SĨ NGUYỄN ĐAN QUẾ

– http://www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen/TT%20-%20Lien%20Hiep%20Quoc%20va%20BS%20Que%20-%20Unicode.htm

Ngày 3-6, 2004, cộng tác với tổ chức Tưởng Niệm Robert F. Kennedy, tổ chức Tự Do Bây Giờ (Freedom Now) đã gửi Thỉnh Nguyện Thư (Petition) tới Nhóm Hành Động về Giam Giữ Độc Đoán thuộc Ủy Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (United Nations Human Rights Commission Working Group on Arbitrary Detention). Nội dung Thỉnh Nguyện Thư trình bầy việc Bác Sĩ Quế đã bị nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bắt giam một cách độc đoán, vi phạm luật pháp quốc tế. Xử dụng thẩm quyền theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Nhóm Hành Động yêu cầu chính phủ Việt Nam giải thích về những lời tố cáo trong Thỉnh Nguyện Thư .

Người ta được biết Nhóm Hành Động Liên Hiệp Quốc gồm các thẩm phán đại diện 5 quốc gia: Algeria, Paraguay, Tây Ban Nha, Hung Gia Lợi, và Ba Tư. Qua Kết Luận Trạng 18 điểm, Nhóm Hành Động nhận định rằng nhà cầm quyền Việt Nam đã không cung cấp được một cách chi tiết những cáo buộc Bác Sĩ Quế đã vi phạm điều 80 mà chỉ tuyên bố tổng quát là những lời tố cáo không đúng sự thật. Dựa trên những sự kiện đã xẩy ra, Nhóm Hành Động đưa ra kết luận qua ba điểm chót, là các điểm 16, 17, và 18:

16:… Hành động của Bác Sĩ Quế chỉ bao gồm việc hành xử một cách ôn hòa quyền tự do của ông về tư tưởng và phát biểu, đã được bao gồm nơi điều 19 của Tuyên Ngôn Hoàn Vũ về Nhân Quyền, và điều 19 của Công Ước Quốc tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị, mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một thành viên.

17: Việc tước đoạt tự do của Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế là độc đoán, trái với điều 19 của Tuyên Ngôn Hoàn Vũ về Nhân Quyền, và điều 19 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân sự và Chính Trị, mà CHXHCNVN là một thành viên.

18: Vì nhận thấy Bác Sĩ Quế đã bị giam giữ độc đoán, Nhóm Hành Động yêu cầu nhà cầm quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam làm mọi biện pháp cần thiết để cứu vãn tình thế hầu phù hợp với các thể thức thông thường và những nguyên tắc bao gồm trong Tuyên Ngôn Hoàn Vũ về Nhân Quyền và Công Ước Quốc tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị.

– Trong một Thông cáo/Kháng Thư phổ biến toàn cầu sáng ngày 16 tháng 11 năm 2004, Ủy ban Văn Bút Quốc Tế Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù đã lên án và phản đối chính phủ Việt cộng vừa tuyên phạt mục sư Nguyễn Hồng Quang 3 năm tù trong một phiên tòa xử kín ngày 12 tháng 11 năm 2004. Văn Bút Quốc Tế thẩm định rằng giam cầm luật sư Nguyễn Hồng Quang, nhà văn đối kháng sử dụng Mạng lưới Internet, là vi phạm quyền tự do phát biểu, thành lập và gia nhập hội đoàn của đương sự. Quyền đó được bảo đảm bởi Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Nhà nước Việt cộng đã ký kết. Vì thế, Văn Bút Quốc Tế đòi phóng thích tức khắc và vô điều kiện tù nhân Nguyễn Hồng Quang.

(http://www.hqtysvntd.org/Nhan%20Quyen/VBQT%20doi%20phong%20thich%20MS%20Nguyen%20Hong%20Quang.htm )

D- Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ tại Việt Nam do G/S Nguyễn Đình Huy phát động tháng 12 năm 1992.



Giáo sư Nguyễn Đình Huy

Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy, tức là Nguyễn Việt Thắng, sinh năm 1932 tại Bắc Phần Việt Nam, Giáo Sư Sử Học, Phó Chủ Tịch Ðảng Tân Ðại Việt, Ðặc trách Tổ Chức, Phó Tổng Thư Ký Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Cộng Sản Việt Nam cưỡng chiếm miền Nam, ông bị giam cầm liên tiếp 17 năm và được trả tự do tháng 2 năm 1992. Sau 3 tháng được tự do, ông liền liên lạc những đồng chí cũ và các nhân vật yêu nước khác trong nước cũng như ngoải nước để thành lập Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ, cũng như tìm sự hậu thuẫn Quốc Tế hầu hổ trợ cho sách lược tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam trong đường hướng ôn hòa.

Ngày 11 tháng 12 năm 1992, các chiến hữu của ông ở hải ngoại vận động Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do cũng như nhiều tổ chức quốc tế khác yểm trợ buổi lễ ra mắt Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ tại Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ, với thành phần nhân sự lãnh đạo, cùng với bản Tuyên Ngôn và Cương Lĩnh của Phong Trào được phổ biến rộng rãi. Nội dung bản tuyên ngôn và cương lĩnh thể hiện một tinh thần đấu tranh ôn hòa và xây dựng, đòi hỏi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam thực thi Dân Chủ, tôn trọng Nhân Quyền để phát triển quốc gia.

Sau ngày ra mắt tại Hạ Viện Hoa Kỳ, bên trong nước nhà cầm quyền CSVN thường xuyên khủng bố Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy và các cấp lãnh đạo Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ qua các cuộc điều tra, thẩm vấn của công an. Trong các cuộc thẩm vấn này, ngày 25-5-1993, ông Phạm Văn Quảng, Phó Tổng Thư Ký Phong Trào, bị ngộ độc chết vì khi uống ly trà của công an Cộng Sản đưa ra.

Tháng 11 năm 1993, Phong Trào do Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy lãnh đạo, với sự yểm trợ của Uỷ Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do, dự trù tổ chức cuộc hội thảo Quốc Tế Phát Triển Việt Nam tại Sài Gòn, Việt Nam, ngày 27-11-1993. Nhưng đến ngày 11-11-1993, nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam ra lệnh cấm tổ chức và bắt Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy cùng cấp lãnh đạo Phong Trào và hai cán bộ của Liên Minh Dân Chủ Việt Nam từ Hoa Kỳ trở về nước để phụ lo tổ chức hội thảo. Sau gần hai năm bị giam cầm trái phép, Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy, cùng quý vị lãnh đạo Phong Trào và hai cán bộ Liên Minh Dân Chủ Việt Nam bị nhà cầm quyền CSVN đem ra tòa xét xử kín và các đương sự không được quyền biện hộ.

Kết quả với bản án vi phạm nhân quyền trắng trợn :

1. Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy, Chủ Tịch, 15 năm tù
2. Giáo Sư Phạm Tường, Phó Chủ Tịch, 14 năm tù
3. Cựu Dân Biểu Nguyễn Ngọc Tân, Phó Chủ Tịch, 11 năm tù (hiện nay đã qua đời sau khi được trả tự do)
4. Giáo Sư Ðồng Tuy, Phó Chủ Tịch, 11 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)
5. Ông Bùi Kim Ðính, Tổng Thư Ký, 12 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)
6. Ông Nguyễn Văn Biên, thành viên, 8 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)
7. Ông Nguyễn Văn Châu, thành viên, 4 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)
8. Ông Nguyễn Tấn Trí, Cán Bộ Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, 7 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)
9. Ông Trần Quang Liêm, Cán Bộ Liên Minh Dân Chủ Việt Nam, 4 năm tù (hiện nay đã được trả tự do)

Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy, dù bị nhà cầm quyền CSVN giam cầm, hành hạ suốt 17 năm, nhưng trước vấn nạn của dân tộc, ông đã dẹp bỏ lòng thù hận, chọn con đường đấu tranh ôn hòa, hầu tìm một giải pháp phải chăng để hai phe Quốc-Cộng có thể chấp nhận, tiến tới chế độ tự do dân chủ, để cùng toàn dân xây dựng lại đất nước đổ vở do những sai lầm trong quá khứ gây nên. Nhưng nhà cầm quyền CSVN đã không ý thức được vấn nạn của dân tộc, để tham vọng quyền lực lấn áp lương tri, thẳng tay đàn áp ngay cả người chủ trương tranh đấu trong ôn hòa, mà Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy và Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ là trường hợp điển hình.Thời gian G/S Huy bị giam cầm 2 đợt sau 1975 tổng cộng là 29 năm tù.

(http://baotoquoc.com/baotoquoc/index.php?view=story&subjectid;=862)

E-Đảng Dân Chủ Thế Kỷ 21



Ông Hoàng Minh Chính (1920-2008)

http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng_D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7_th%E1%BA%BF_k%E1%BB%B7_21

Đảng Dân chủ thế kỷ 21 hay Đảng Dân chủ (XXI) là các tên gọi tắt của Đảng Dân chủ Việt Nam – một đảng chính trị ở Việt Nam được thành lập ngày 1 tháng 6 năm 2006, do Hoàng Minh Chính làm Tổng thư ký và Trần Khuê làm Phó tổng thư ký, văn phòng trung ương hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 1 tháng 6 năm 2006, Hoàng Minh Chính, nguyên Tổng Thư Ký Đảng Dân chủ Việt Nam trong thập kỷ 1950, ra tuyên bố phục hồi hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam, tên Đảng Dân chủ thế kỷ 21 hay Đảng Dân chủ (XXI) thường được sử dụng để nói lên rằng là đảng của thế kỷ 21.

Đảng Dân chủ thế kỷ 21 hay Đảng Dân chủ (XXI) được những người sáng lập coi là sự hoạt động trở lại của Đảng Dân chủ Việt Nam – một chính đảng được thành lập năm 1944 và đã tuyên bố giải thể vào năm 1988 – Nay khôi phục lấy lại tên gọi của chính đảng đã bị giải thể

http://www.vndm.org/modules.php?name=News&file;=article&sid;=2346

“Tháng 6-2006 GS Hoàng Minh Chính

tuyên bố phục hoạt Đảng Dân Chủ Việt Nam nhằm mục đích xây dựng đất nước Việt Nam dân chủ, đoàn Kết, phát Triển. Bị bệnh trầm trọng phải vào nhà thương, nhưng GS vẫn tiếp tục làm việc để gầy dựng và chuẩn bị cho một thế hệ lãnh đạo mới của Đảng Dân Chủ. Đồng thời  viết nhiều bài nghiên cứu tâm huyết cuối đời về hướng đi tương lai của đất nước.

Ngày 7 tháng 2 năm 2008, nhằm ngày Mùng Một Tết Mậu Tý vào lúc 23h08 GS trút hơi thở cuối cùng. GS ra đi để lại biết bao sư kính phục ngưỡng mộ cho những người đi theo con đường dân chủ .

Cuộc đời của GS là một chuỗi dài những năm tháng đấu tranh gian khổ, chiến đấu liên tục vì nền độc lập của đất nước, và GS là một chiến sỹ kiên cường đấu tranh cho tự do dân chủ hóa đất nước, đến tận hơi thở cuối cùng trên giường bệnh”

F-Các tôn giáo tại VN đòi hỏiTự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền:



Song song với các đoàn thể và tổ chức chính trị ,các tôn giáo tại Việt Nam bao gồm :Phật Giáo,Công Giáo ,Tin Lành,Hoà Hảo,Cao Đài thảy đều đồng loạt đấu tranh đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền với nhiều hình thức phản kháng khác nhau nhưng nói chung đã đem lại cho toàn thề dân VN tại Quốc Nội và Hải Ngoại ,cũng như toàn thế giới hiểu rỏ chân tướng cuả CSVN :bên ngoài thì hô hào tự do tôn giáo,tự do lập hội,tôn trọng nhân quyền,tôn trọng Dân Chủ nhưng thực chất trái ngược :Không có tự do Tôn Giáo,không có Dân Chủ và Nhân Quyền trong xã hội công dân,Báo chí ,truyền thông chỉ phản ảnh một chiều theo chỉ thị của đảng,Quốc Hội cuả đảng chứ không phải cuả dân.

Những hoạt động phản kháng cuả các tôn giáo tại VN đã nêu lên cho mọi người là tát cả các tôn giáo không phải phục vụ cho đời sống tâm linh cuả người dân ,mà phải và chỉ phục vụ cho nhu cấu cuả đảng.Những tổ chức tôn giáo nào tuân hành thì được phép hoạt động (tôn giáo Quốc Doanh) trong khuôn khổ cho phép.Còn các tôn giáo nào không theo chỉ đạo cuả đảng sẽ bị cấm hoạt động và bị xách nhiểu , đe doạ,trấn áp.

Nhận định cuả Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới (US Commission on International Religious Freedom) về tôn giáo tại VN năm 2008 như sau :

Căn cứ trên cuộc điều tra tại Việt Nam tháng 10 năm 2007 cùng với những kiểm tra, nghiên cứu, bản Báo cáo gồm nhiều chi tiết chính xác của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới là dụng cụ quý báu cho những ai quan tâm đến tự do tôn giáo tại Việt Nam. Bản Báo cáo còn là nguồn thông tin đầy đủ cũng như phấn kích cho giới tín đồ và các cộng đồng tôn giáo tại Việt Nam hiện đang can đảm chịu đựng những sách nhiễu, kiểm soát và bị bắt bớ, giam cầm vì đeo đuổi một cách ôn hòa lòng tin và tín ngưỡng của mình”.

Nay Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới tuyên bố là Việt Nam cần đặt lại trong danh sách CPC vì Việt Nam “vẫn tiếp tục đối xử tồi tệ, phân biệt đối xử và hạn chế tự do tôn giáo. Chính quyền vẫn tiếp tục cầm tù và bắt giữ hàng chục người lên tiếng bênh vực cho tự do tôn giáo tại Việt Nam. Phật tử thuộc dân tộc ít người và tín hữu Tin Lành thường xuyên bị sách nhiễu, đánh đập, bắt giam, cầm tù, phân biệt đối xử và tiếp tục bị bó buộc phải chối bỏ tín ngưỡng họ”.

“việc đàn áp GHPGVNTN không chỉ nhắm vào hàng giáo phẩm cao cấp mà còn trực tiếp phá cản chư Tăng thuộc các Ban Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh thành”. Bản báo cáo đưa ra một loạt sự kiện công an sách nhiễu, thẩm vấn, “tố khổ trước quần chúng”, trục xuất Tăng Ni ra khỏi chùa, hay vận động quần chúng Phật tử tố giác chư Tăng Ni hoặc tẩy chay không đến chùa, nếu họ không thi hành sẽ bị mất công ăn việc làm, con cái không được đi học. Bản báo cáo nhấn mạnh đến việc nhà cầm quyền tìm cách trục xuất Thượng tọa Thích Trí Khải ra khỏi chùa Giác Hải ở huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng”.

(http://www.queme.net/vie/news_detail.php?numb=993#note1 )

– Một số hoạt động tiêu biểu cuả các tôn giáo tại VN đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo:

1- Phật Giáo Việt Nam :



Trước những sự kiện đàn áp tôn giáo tại VN , đặc biệt là Phật Giáo .Các Nghị Sĩ và Dân Biểu Hoa Kỳ cực lực lên án những hành động đàn áp Phật Giáo VN qua quyết nghị 427 tháng 10.2003 như sau:

“-Ngày 30-10-2003, hai Nữ Dân biểu Sanchez, Lofgren cùng các Dân biểu đồng bảo trợ Chris Smith, Tom Davis và Ed Royce đã đệ nạp bản Dự thảo Nghị quyết 427 trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện, có nội dung chúc mừng qúy vị lãnh đạo lưỡng viện của GHPGVNTN vừa được suy cử, chúc mừng cho sự hoạt động của GHPGVNTN, đồng thời phản kháng những hành động đàn áp của CSVN đối với giáo hội này.

…Vì thế nay quyết nghị rằng:HẠ VIỆN HOA KỲ

Chúc mừng hàng Giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mới được công cử;

– Khuyến cáo Chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền của các tổ chức tôn giáo độc lập được hội họp, thờ cúng, hoạt động, và thực hành niềm tin của họ phù hợp theo bản Hiến pháp của Việt Nam cũng như các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết ;

– Khuyến cáo Chính phủ Việt Nam trả tự do cho tất cả những công dân bị cầm tù hay quản chế vì đã thực hành tín ngưỡng hay vì phát biểu công khai ủng hộ tự do tôn giáo, đặc biệt như trường hợp của Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang và Hòa thượng Thích Quảng Độ;

– Tận lực làm thăng tiến tự do tôn giáo tại Việt Nam, và để đẩy mạnh tới mục tiêu này, khuyến cáo Quốc hội thông qua, và Tổng thống ký ban hành Đạo luật Nhân quyền để phát triển tự do và dân chủ tại Việt Nam, và khuyến cáo Quốc hội cùng cơ quan hành pháp thi hành những kế hoạch hành động của Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới; và – Khuyến cáo Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam theo dõi chặt chẽ các trường hợp bị đối xử tồi tệ vì lý do tôn giáo và thực hành các tín ngưỡng, và thường xuyên thăm viếng hàng giáo phẩm bị giam cầm, đặc biệt với những vị cần chăm sóc thuốc men, và phúc trình cho Quốc hội những biện pháp đặc thù để bảo vệ và thăng tiến tự do tôn giáo tại Việt Nam.

– Ngày 8.5.2008 Uỷ Hội Nhân Quyền Quốc tế HRW Tố Cáo: Không Có Tự Do Tôn Giáo Tại Việt Nam

Ủy Hội Nhân Quyền Quốc Tế (HRW) tuyên bố trong khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế Vesak vào tuần tới, một trong những ngày trọng đại của Phật giáo, chính phủ Việt Nam phải ngưng ngay việc đàn áp, ức chế và giam tù các Phật Tử, tu sĩ và các tổ chức tôn giáo khác. Vẫn còn hơn 400 người bị giam tù chỉ vì hành xử các quyền hoạt động tôn giáo và chính trị một cách ôn hòa.”

http://www.viettan.org/article.php3?id_article=5647

– “Ủy Hội Nhân Quyền Quốc Tế (HRW) tuyên bố trong khi Việt Nam chuẩn bị tổ chức Đại Lễ Phật Đản Quốc Tế Vesak vào tuần tới, một trong những ngày trọng đại của Phật giáo, chính phủ Việt Nam phải ngưng ngay việc đàn áp, ức chế và giam tù các Phật Tử, tu sĩ và các tổ chức tôn giáo khác. Vẫn còn hơn 400 người bị giam tù chỉ vì hành xử các quyền hoạt động tôn giáo và chính trị một cách ôn hòa.

Là một quốc gia đã ký vào công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị và các công ước về nhân quyền, Việt Nam phải tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng.”

– “Nhân dịp Phật Đản LHQ 2008 tại Hà Nội, 51 nhân vật quốc tế yêu sách CHXHCNVN chấm dứt cuộc đàn áp GHPGVNTN, trả tự do cho Đức Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ và phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN”

http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?p=1528

– “Ngày 5.2 2007 Ủy Ban Quốc Tế về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ USCIRF đề nghị đưa Việt Nam trở lại danh sách các nước cần được đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo, gọi tắt là CPC.Trong cuộc họp báo tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia ở thủ đô Washington DC lúc 10 giờ sáng (tức 9 giờ tối giờ Việt Nam), Ủy Ban Quốc Tế về Tự Do Tôn Giáo đã công bố bản phúc trình hàng năm về tình hình tự do tôn giáo trên thế giới trong năm qua.

Uỷ ban này đề nghị giữ nguyên danh sách tám nứơc cần được đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo của năm ngoái, và đưa thêm ba quốc gia vào danh sách này, đó là Pakistan, Turkmenistan và Vịêt Nam.”

http://www.khmerland.net/vn/index.php?option=com_content&task;=view&id;=112&Itemid;=39

Đồng bào trong và ngoài nước thảy đều biết rằng với chủ trương “tiêu diệt các tôn giáo” của đảng CSVN đã có từ thời khai sinh chủ thuyết Cộng Sản 1930.Nhưng với tình thế hiện tại khác với thời 1930-1945,CSVN biết rằng chúng không thể thực hiện được nên chúng chuyển hướng sang phá hoại và làm vô hiệu hoá các tôn giáo, đứng đầu là Phật Giáo với 75% dân số .Bằng cách lập 1 giáo hội Phật Giáo Quốc Doanh (4.11.1981) song hành với Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống Nhất đã hiện diện trải dài hàng ngàn năm tại VN.

Kể từ thời điểm nầy CSVN một mặt bắt giam ,tù đày và tra tấn các vị tăng ni của GHPGVN Thống Nhất,một mặt tịch thu chùa chiền cuả GHPGVNTN giao cho GHPG Quốc Doanh , Đồng thời cô lập không cho phật tử tiếp tế nuôi dưởng ni,sư cuả GHPGVNTN, kế đó cho công an đội lốt sư sải len lỏi cài sâu vào nội bộ cuả GHPGVNTN .

Trước những thủ đoạn thâm độc của bọn Việt Gian Cộng Sản ,toàn dân VN thảy đều khâm phục tinh thần vô uý,bất khuất không phải chỉ hai vị Hoà Thượng đứng đầu giáo hội mà là cả tập thể tăng ni trong giáo hội đã kiên cường đáu tranh bảo vệ Giáo Hội trong suốt 33 năm qua.Trong đó tránh làm sao khỏi có một thiểu số tăng ni đầu hàng hay bị khống chế bằng nhiều thủ đoạn đê tiện cuả CSVN .Giáo chỉ số 9 cuả GHPGVNTN ra đời là để đối đầu với bạo quyền CS ,làm trong sạch hàng ngủ tăng ni ở Quốc Nội và cả Hải Ngoại làm cho Việt Gian CS lúng túng và các thành phần phản bội giáo hội bị vạch mặt nên chúng phản ứng chống đối Giáo Chỉ.Mục đích của nhóm thiểu số phản bội mong làm cuộc “đảo chánh”,nếu có thất bại thì chúng vẫn còn con đường chạy theo giáo hội Quốc Doanh!Nhưng công luận trong và ngoài nước đã thấy rỏ và lên án bọn cơ hội nầy.

Xu hướng toàn cầu cuả thời đại ngày nay là : chỉ có Dân Chủ thật sự,Tự Do Tôn Giáo thật sự thì mới tồn tại.Những chế độ Dân Chủ giả hiệu,Tư Do trá hình sẽ bị đào thải. Độc Tài ,bất công sẽ bị thay thế bằng Dân Chủ Tự Do thật sự.Cuộc chiến giửa “Chân Lý” và “Gian Trá”sẽ còn nhiều cam go,gian khổ,ai bền gan sẽ thắng,ai nôn nóng sẽ thất bại.Người chiến sĩ cho Tự Do Dân Chủ không được bỏ cuộc giửa đường!Sự ủng hộ cuả cả Thế Giới cho Tự Do ,Dân Chủ,Nhân Quyền ngày càng thắng lợi trên nhiều quốc gia và Độc Tài sẽ phải bị lịch sử đào thải theo lẻ tất nhiên cuả tiến trình “Tiến Hoá cuả Nhân Loại” ở thế kỷ 21.

2- Công Giáo Việt Nam :



Linh mục Nguyễn Văn Lý đấu tranh cho Tự Do Tôn Giáo



Giáng Sinh năm 2007, hàng nghìn giáo dân đã tụ tập cầu nguyện ở khu vực phố Nhà Chung để đòi lại Tòa Khâm Sứ.

Bên Công Giáo vì là một tổ chức tôn giáo chặc chẻ có hậu thuẩn Quốc Tế từ Vatican nên CSVN chỉ có thể gây chia rẻ trong nội bộ hàng giáo phẩm.Những ai chịu thỏa hiệp một phần hay toàn phần thì được mọi sự dể dàng trong mọi lĩnh vực ,còn những ai không tuân phục sự khống chế của CS thì dù là người có cảm tình và có công với CS trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam 1954-1975 cũng bị chúng tìm mọi cách hảm hại(Ðiển hình như linh mục Nguyễn Ngọc Lanvà linh mục Chân Tín.) còn những ai chống lại chủ trương độc tài của CSVN thì chịu nhiều hình phạt tù đày tịch thu đất đai của giáo hội, đôi khi còn bị thủ tiêu hay bị giết hại (Như vụ LM Trần Ðình Thủ thuộc dòng Ðồng Công Thủ Ðức) .Linh Mục Nguyễn Văn Lý thuộc giáo xứ Nguyệt Biều, Huế chỉ vì phản đối tính cách đàn áp tôn giáo của CSVN mà đã bị giam 14 năm và quản lý hành chánh (giam lỏng) hàng chục năm. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vụ Vinh Sơn nổi dậy chống độc tài thì CSVN đã giam cùm khác nghiệt cho đến chết trong tù năm 1985.Sự chống đối một cách ôn hoà của Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền đã trả giá bằng chính sinh mạng ngài.

– “Chúng ta đã chứng kiến được cảnh tranh đấu của cộng đồng Công Giáo ở VN nói chung và ở Tổng Giáo phận Hà Nội nói riêng cho quyền lợi chính đáng của mình. ..Cuộc tranh đấu đó chính đáng không những vì mục đích của nó chính đáng, mà cả hình thức tranh đấu cũng hoàn toàn chính đáng ngay từ đầu. Bởi vì cộng đồng người Công Giáo Việt Nam tranh đấu chỉ đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình và một cách hoàn toàn trật tự, bất bạo động. Một cuộc tranh đấu như thế đã được không chỉ các cộng đồng CGVN và những người VN thiện tâm ở hải ngoại ủng hộ, nhưng còn được Tòa Thánh Vatican và quốc tế quan tâm… Nói tóm lại, cuộc tranh đấu cho công lý và cho quyền lợi chính đáng của Giáo Hội Việt Nam nói chung và của TGP Hà Nội nói riêng, là một cuộc tranh đấu đầy chính nghĩa.”

– (http://tudongonluan.atspace.com/45/toakhamsu.html)

-“Sự kiện giáo dân Hà Nội tụ họp cầu nguyện từ ngày 18.tháng 12năm 2007để Toà Khâm Sứ được trả về cho Tổng Giáo Phận Hà Nội vẫn tiếp diễn. Mới đây các báo đài trong nước đưa tin rằng đất đai của Tổng Giáo Phận Hà Nội đã được vị quản lý chính thức bàn giao cho nhà nước từ hơn vài mươi năm nay… Đến hôm nay hàng trăm giáo dân Hà Nội vẫn tiếp tục tập trung tại khuôn viên Toà Khâm Sứ để cầu nguyện, dù đã xảy ra vụ xô xát hồi cuối tuần khiến một số giáo dân bị thương và có dấu hiệu chính quyền có thể dùng biện pháp mạnh.Cuộc cầu nguyện kéo dài đến 30.1.2008.”

Nhận định: khi cuộc tranh đấu ôn hoà nhưng đầy quyết tâm của Công Giáo VN đến thời điểm gay cấn,bạo quyền CSVN tỏ ra lúng túng và bị động ,ra thông baó sẽ có biện pháp mạnh vào thời hạn chót là ngày 27.1.2008 nếu phía GP Hà Nội không chịu giải tán.Giáo dân Hà Nội vẫn kiên quyết đối đầu và còn tăng cường người cầu nguyện ,rốt cuộc CSVN phải nhượng bộ bằng cách cho người liên lạc với GP Hà Nội sẽ giải quyết trao trả đất đai đã chiếm trái phép cuả Toà Khâm Sứ Hà Nội(nhưng hiện nay chưa thấy cụ thể việc trao trả)

(http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=30%2f01%2f2008#51760 )

(http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=01%2f02%2f2008#51867 )

3-Tin Lành,Hoà Hảo,Cao Đài :



Tín đồ Hoà Hảo tự thiêu đòi tự do tôn giáo

Mục sư Võ Quốc Khánh sau khi bị công an đánh



Tòa thánh Cao Đài tại Tây Ninh bị tịch thu năm 1978(đây là trụ sở tôn giáo chính cuả đạo Cao Đài )

Những chức sắc tôn giáo khác như Cao Ðài,Hoà Hảo,Tin Lành cũng không tránh khỏi số phận ,tùy theo mức độ phục tòng hay thái độ chống đối ít hay nhiều thảy đều bị theo dỏi , đe dọa,bạo hành hay bị sát hại không thương tiếc.Những vụ chống đối tiêu cực nhu tự thiêu đồng loạt 12 tu sĩ tại chùa Dược Sư ,Cần Thơ tháng 11 năm 1975 để phản đối sự cai trị độc ác của CSVN đối với Phật Giáo và sau đó đến nay còn có 10 vị ni sưlần lượt tự thiêu để đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo tại VN.Giáo Hội PG Hoà Hảo đã có 2 vụ tự thiêu và hàng trăm vụ biểu tình phản đối chế độ hà khắc Tôn Giáo. Ðạo Cao Ðài đã bị tịch thu Toà Thánh,các thánh thất bị đưa vào cai quản bởi nhà nuớc.

Ngày nay đạo Cao Đài đã có những tiếng nói đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo trong suốt 33 năm qua bị giải tán ,Toà Thánh bị tịch thu,tất cả chức sắc lãnh đạo bị bỏ tù,giam lỏng.Những đòi hỏi chính đáng của đạo Cao Đài bao gồm : Hai yêu sách đã được đưa ra trong cuộc cầu nguyện ngày 17 tháng Ba năm 2008 tại Gốc Bồ Đề trước Cửu Trùng Thiên thuộc Tòa Thánh gồm có: “- Thứ nhất, phục hồi Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ theo đúng Tân Luật và Pháp Chánh Truyền; thứ nhì, Hội Đồng Chưởng Quản phải ra khỏi, và trao trả Tòa Thánh lại cho khối nhơn sanh Cao Đài nguyên thủy. – Hai yêu sách này mang tính cơ bản, đã thể hiện những mâu thuẫn vừa về chính trị, lại vừa về tôn giáo trong đạo Cao Đài. Chúng gay gắt về tính chất, và quyết liệt trong mức độ, vì va chạm trực tiếp đến Thánh Địa và Giáo Luật của một tôn giáo đã tồn tại 80 năm, với 30 năm âm ỉ những mâu thuẫn mà  không có giải pháp. Mốc thời gian ấy là năm 1978.” Xem chi tiết những tranh đấu của Đạo Cao Đài trên trang web :

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the-CaoDai-itinerary-from-1975-part1-TGiao-06182008160318.html

Xin xem bài chi tiết :

Những Thủ Đọan Của Cộng Sản Việt Nam Đối Với Các Tôn Giáo Từ Lịch Sử Cận Đại Đến Nay. cuả Long Điền trên các trang web :

– http://www.toquocdanhdutrachnhiem.com/

– 
http://suutamlichsu.blogspot.com/2007/03/nhung-thu-doan-cua-csvn-doi-voi-ton.html

– http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file;=article&sid;=1462

– Tuy chưa có những hoạt động phối hợp ,nhưng trong nhiều tình huống các tôn giáo có lời kêu gọi chung để đòi hỏi Tự Do tôn giáo :

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=78575

Lời kêu goị Dân Chủ cua các Tôn Giáo tại VN .

Lời kêu goị Dân Chủ cua các Tôn Giáo tại VN ngày 15 tháng 5 năm 2008

“Chúng tôi là những tu sĩ thuộc các Giáo hội độc lập tại Việt Nam gồm Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài, vì lương tâm tôn giáo và trách nhiệm công dân, xin gởi đến Quí vị Lời Kêu Gọi Dân Chủ cho Việt Nam, xuất phát từ những nhận định sau đây:

1. Trong suốt lịch sử Việt Nam, niềm tin tôn giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần cho nhân dân và luôn bên cạnh những bước thăng trầm của dân tộc. Thế nhưng từ khi chế độ Cộng sản toàn trị được áp đặt lên nhân dân Việt Nam, do ảnh hưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản đã bác bỏ vai trò của tôn giáo, xem tôn giáo như “thuốc phiện ru ngủ nhân dân” hay “kẻ thù của giai cấp vô sản!” Do đó vai trò của tôn giáo trong đời sống tinh thần văn hóa, đạo đức không còn thể hiện tích cực được nữa. Sau năm 1954 ở Miền Bắc và sau năm 1975 tại Miền Nam, nhiều tu sĩ các tôn giáo bị chết hay bị cầm tù trong các trại cải tạo, giáo dân bị phân biệt đối xử, tài sản của các tôn giáo bị tịch thu đến nay chưa trả! Nhà cầm quyền tổ chức lực lượng an ninh tôn giáo và nhiều cơ quan chuyên trách xâm nhập vào các tôn giáo để tìm mọi cách lũng đoạn, làm suy yếu và làm biến chất tôn giáo. Đồng thời Đảng đã hạn chế hay tước đoạt luôn các hoạt động xã hội và nhân đạo của tôn giáo. Điều nầy đã làm tê liệt các Giáo hội, khiến xã hội Việt Nam như chết lịm, tầng lớp dân nghèo bị thiệt thòi, vì tôn giáo bị đặt bên lề xã hội.

Nay Quí vị dù là lãnh đạo nhưng cũng là nạn nhân của quan niệm và đường lối sai lầm do thời tiền nhiệm để lại như thế, nhưng Quí vị vẫn chưa dứt khoát để kết thúc nó hôm nay!

2. Giờ đây nhân loại đang bước vào thời đại toàn cầu hóa với sự phát triển vô cùng sinh động về phương diện kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhất là phương diện chính trị, theo xu thế đề cao dân chủ và tôn trọng nhân quyền, từ đối đầu tranh chấp chuyển qua đối thoại hợp tác, xóa bỏ trật tự cũ xơ cứng, đau thương của thời kỳ chiến tranh lạnh hãi hùng trước đây. Việt Nam cũng đang hội nhập dòng chảy kinh tế toàn cầu, đang thu hút đầu tư và viện trợ từ những quốc gia tự do dân chủ Tây phương, khiến nền kinh tế đất nước có nhiều tiến bộ rõ rệt. Đồng thời, hơn ba triệu kiều bào định cư, làm việc tại các nước tiên tiến nhất, với nguồn nhân lực, tài lực và lòng yêu nước của họ, cũng là động lực cho sự phát triển Quê hương trong thời gian qua.

Tuy nhiên, những tiến bộ về kinh tế vẫn chưa thể bảo đảm cho đất nước chúng ta thoát khỏi những vấn nạn hết sức nghiêm trọng như nhân quyền và dân quyền bị xâm hại khắp nơi, các giá trị tinh thần tín ngưỡng bị phế bỏ, môi sinh ra tồi tệ, giáo dục không có mục tiêu chân thực, chiến lược đúng đắn nên không sản sinh được nhân tài cho đất nước, lối sống văn hóa bị biến thoái có nguy cơ làm băng hoại nền văn hiến lâu đời của dân tộc ta. Cộng vào đó là nạn tham nhũng lộng hành tàn phá quốc gia, thói đặc quyền cấu kết với đặc lợi chiếm đoạt tài sản của nhân dân và của đất nước, lối sống hoang phí và sa đọa trên sự đau khổ nghèo túng của đồng bào, sự dối trên lừa dưới khá phổ biến trong xã hội, khiến niềm tin dân chúng suy kiệt, năng lực quốc gia suy yếu, thực lực quốc phòng lạc hậu, lãnh thổ quốc gia do tiền nhân bao đời dày công bồi đắp đang bị bá quyền Bắc phương từ từ chiếm đoạt và khai thác tài nguyên. Đây là một dã tâm có thể gây thảm họa đau thương khôn lường cho con cháu chúng ta trong một tương lai gần kề!

3. Để trả lại vai trò của Tôn Giáo trong việc khôi phục các giá trị đạo đức tinh thần của dân tộc, tận dụng được mọi cơ hội phát triển đất nước, đoàn kết được toàn dân hầu ngăn chặn mọi đe dọa đến sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chúng tôi cho rằng không còn con đường nào khác ngoài con đường khẩn cấp dân chủ hóa cách đích thực. Chỉ trong một xã hội tự do dân chủ, nhân dân mới phát huy được sáng kiến và năng lực phong phú phát triển toàn diện đất nước. Chỉ thông qua một cuộc tổng tuyển cử tự do, công bằng mới hình thành một nhà nước đại diện cho toàn dân, mới bảo đảm sản sinh được những người cầm quyền có trí, có tâm, có tầm, có dũng, đảm đương được sứ mệnh mà nhân dân phó thác, biết đặt lợi quyền của dân tộc trên tất cả. Có thế thì tham vọng bá quyền quốc tế mới bị vô hiệu hóa !”

….Ðồng kêu gọi:

– “Thượng Tọa Thích Thiện Minh (Phật Giáo VNTN)
– Mục Sư Nguyễn Hồng Quang (Tin Lành)
– Linh Mục Phan Văn Lợi (Công Giáo)
– Thừa sư Lê Quang Tấn (Cao Ðài)
– Tu sĩ Lê Minh Triết ( PG. Hòa Hảo)

Quí Tu Sĩ đồng ủng hộ Lời kêu gọi:

Hòa Thượng Thích Nhật Ban
Thượng Tọa Thích Thiện Khanh
Thượng Tọa Thích Thanh Tịnh
Thượng Tọa Thích Như Tân
Thượng Tọa Thích Thiên Lộc
Thượng Tọa Thích Thiện Thắng
Mục sư Thân văn Trường
Mục sư Ðinh Thanh Trường
Mục sư Phạm Ngọc Thạch
Mục sư Phan Văn Út
Mục sư Huỳnh văn Bộ
Mục sư Ðàng Năng Quyền
Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa”

F-Tổng Kết :

Đó là tổng kết thành quả đạt được cuả các tôn giáo, đoàn thể đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền đạt được trong thời gian 33 năm qua.

– Phong trào đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ tại Việt Nam tuy chưa đạt được mục tiêu cuối cùng là giải thể Đảng CSVN và thiết lập thể chế Dân Chủ cho Đất Nước trong suốt 33 năm dài tranh đấu nhưng cũng đã mang lại cho toàn dân những thắng lợi lớn lao là:

-Làm cho toàn dân VN biết được bộ mặt gian trá cuả CSVN là phường bán nước ,hại dân.Sự đấu tranh kiên cường dù chịu nhiều gian khổ của các phong trào Dân Chủ là ý nguyện của toàn dân VN không thể sống dưới ách cai trị độc tài và bất lương cuả đảng CSVN.
-Làm cho toàn thể thế giới ,nhất là những nước hiện đang giao thương với CSVN biết được sư cai trị bạo tàn và chà đạp Nhân Quyền ,xâm phạm quyền Tự Do ,Dân Chủ cuả toàn dân VN ngỏ hầu tránh xa bọn độc tài ,thối nát.
-Làm cho giới truyền thông thiên tả quốc tế cũng đã thay đổi nhận định một chiều và cổ vủ cho phong trào Đấu Tranh cho Dân Chủ, đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo tại VN.

-Làm cho bọn cầm quyền CSVN phải luôn luôn ở vào thế bị động,bị tố cáo của đông đảo quần chúng quốc tế và quốc nội lên án.Khiến cho chúng ngày đêm lo âu tìm cách đối phó với phong trào và luôn lo sợ cho ngày sụp đổ cuả chế độvà toànthể bọn chúng sẽ bị đưa ra xét xử trước toàn thể Quốc Dân Việt Nam .

Phần 2
– Những điểm yếu ,kém trong hoạt động Đấu Tranh tại Quốc Nội

-Nhận định cuả người Việt Quốc Nội :Tháng 2 /2008 Nguyễn Vũ Bình một chiến sĩ kiên cường trong Khối 8406 có bài nhận xét và phân tích rất trung thực vê tình hình đấu tranh cho Tư Do Dân Chủ trong nước như sau :

“Chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá đúng đối thủ mới hy vọng chiến thắng trong cuộc vận động Dân Chủ đầy cam go này.”

-“Ðiều đáng tiếc là những người có lương tâm, những người đấu tranh Dân Chủ chưa có sự đoàn kết cũng như những đường hướng rõ rệt để giúp cho tầng lớp bị trị hiểu được căn nguyên nỗi thống khổ của họ cũng như động viên, tổ chức họ đấu tranh giành lại tương lai của mình.”

Đánh giá những công tác đấu tranh nhà báo Nguyễn Vũ Bình đã có nhận xét qua 3 lĩnh vực như sau:

“1/ Những hoạt động nhằm nâng cao dân trí, khích lệ tinh thần yêu nước: Có thể nói đây là thành tựu rất lớn của PTDC Việt Nam trong những năm qua,… tất cả những người đấu tranh Dân Chủ và những người có cảm tình với PTDC đều thống nhất một mục đích với quyết tâm cao: cần phải giải thể chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay.

2/ Những hoạt động lên án, tố cáo chế độ cùng với việc vận động tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế đối với PTDC:.. những hoạt động tố cáo chế độ cùng với việc vận động tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế đã đạt được những thành công rất quan trọng: trước hết PTDC Việt Nam đã thiết lập được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với các tổ chức đại diện cho các lực lượng Dân Chủ tiến bộ trên thế giới… Trước hết, tuy những dẫn chứng về sự đàn áp Nhân Quyền, Dân Chủ mà PTDC có được và tố cáo với quốc tế rất sống động và đắt giá nhưng áp lực lên nhà cầm quyền VN lại rất hạn chế. ..Sự quan tâm của Mỹ tới vấn đề Dân Chủ, Nhân Quyền thời gian vừa qua mang nhiều tính hình thức cũng như tính chất xoa dịu đối với PTDC sau một đợt đàn áp khốc liệt.

3/ Những hoạt động với mục tiêu tập hợp lực lượng, kết hợp giữa những người đấu tranh Dân Chủ: Một, chúng ta chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của mục tiêu tập hợp lực lượng, Hai, chúng ta chưa có sự thống nhất trong hành động và phương thức kết hợp, tập hợp lực lượng. Ba, hiệu quả trong đối sách của nhà cầm quyên VN trong việc ngăn chặn, đàn áp các cố gắng kết hợp của PTDC Việt Nam.”

Tóm lại :Trong khi đó Nhà cầm quyền VN lại đang thực hiện nhiều âm mưu, quỷ kế rất đáng ngại nhằm khống chế, biến chất PTDC trong nước cũng như PTDC Việt Nam nói chung.

“PTDC nếu không nhìn nhận đúng chiến lược tấn công của an ninh VN chủ yếu dựa vào chiến thuật cài cắm người chắc chắn sẽ nhận thất bại đau đớn.”

“Có hai dạng Dân Chủ hai mang, đó là người được chủ động cài cắm vào và người của PTDC bị khống chế. Người được cài cắm có hai loại, loại có nghiệp vụ an ninh và loại bình thường mà bên hình sự gọi là đặc tình. Người của PTDC bị khống chế vì nhiều lý do nhưng chủ yếu là sợ tù đầy. .. Chỉ cần với số lượng người mà an ninh VN cài cắm và khống chế được hiện nay, trong những trường hợp cần thiết phải huy động phần lớn số đó, Nhà cầm quyền VN đã có thể triệt tiêu phần lớn sức mạnh của PTDC trong bất cứ kế hoạch nào.”

(http://tudongonluan.atspace.com/47/tuonglai.html )

Nhận định cuả tác giả:

I)- Khả năng của địch :Trước khi nói về những điểm yếu,kém cuả phong trào đấu tranh Quốc Nội ,chúng ta thử nhận định về khả năng đối phó của địch(bọn Việt Gian CS) và từ đó nhận định những khó khăn phải vượt qua để đạt thắng lợi.Với trên 3 triệu đảng viên, trên 1 triệu công an, viên chức từ xả ấp đến trung ương,gần 1 triệu quân chính quy va lực lượng an ninh địa phương bị áp đặt làm tay sai ,công cụ bảo vệ cho đảng độc tài thay vì bảo vệ Tổ Quốc.

Mạng lưới an ninh tổ,phường,quận ,huyện làm tai mắt tình báo nhân dân đã gây khó khăn rất lớn cho các phong trào Tranh Đấu cho Tự Do Dân Chủ trong nước.Kinh tế khó khăn,giàu nghèo chênh lệch quá xa,gìới nghèo chiếm đa số ,việc chạy ăn từng bửa cũng là nhân tố làm chùng bước đấu tranh của toàn dân.

Nhưng từ những thế mạnh cuả địch lại lộ ra sự tất yếu sụp đổ chế độ :vì càng tham nhũng,khiến cho dân càng căm thù chế độ,dân càng bị bóc lột,nghèo đói sẽ đi đến đấu tranh để tìm con đường sống còn.Quy luật muôn đời :”Nơi nào có áp bức, nơi đó có đấutranh”.Sự chịu đựng của dân VN chỉ có một mức độ nhất định,sự dồn nén chính trị,sự cai trị độc tài,sự bất công ,thối nát ,xả hội suy đồi ,tín ngưởng bị chà đạp sẽ là ngòi nổ giật sập chế độ bất cứ lúc nào!

II) Những sai lầm vấp phải của các phong trào đấu tranh Dân Chủ và Tự Do tôn giáo :

a- Chưa có sự đồng thuận rỏ rệt cuả hàng lảnh đạo Tôn Giáo cấp cao nhất:

Có thể nói từ sau 1975,trong vòng vài tháng sau khi CSVN cưởng chiếm Miền Nam ,chúng đã áp dụng đúng theo bài bản cuả CS Quốc Tế là tiêu diệt cho bằng được các tôn giáo .Việc thành lập các tổ chức tôn giáo quốc doanh thể

hiện ý đồ chia rẻ tôn giáo ,một thủ đoạn đê tiện cuả CSVN . Những nhóm lảnh đạo tôn giáo quốc doanh đã quay lưng với Dân Tộc và bỏ rơi đồng đạo , điển hình như sau :

a)- Ðối với Phật Giáo :các chùa đều bị trưng dụng để làm cơ sở này cơ sở khác, còn không thì cho người tại gia vào ở làm mất vẻ tôn nghiêm của chùa và thế tục hóa dần dần. Về các cơ sở vật chất thì phá hoại bằng những cách như trên, còn đối với cơ cấu tổ chức của giáo hội thì cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc là “gậy ông đập lưng ông”, nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ tăng ni để phá hoại nội bộ giáo hội . Ngoài ra những cán bộ tình báo CS đặc trách Tôn Giáo luôn tìm mọi cách gây chia rẻ trong hàng ngủ các lảnh đạo tôn giáo bằng hình thức lập 1 giáo hội Quốc Doanh song hành với giáo hội Chính thức để phân hoá hàng ngủ tăng ni và tín đồ.

b) – Bên Công Giáo thì vì là một tổ chức chặc chẻ có hậu thuẩn Quốc Tế từ Vatican nên CSVN gây chia rẻ trong nội bộ hàng giáo phẩm.Những ai chịu thỏa hiệp một phần hay toàn phần thì được mọi sự dể dàng trong mọi lĩnh vực ,còn những ai không tuân phục sự khống chế của CS thì dù là người có cảm tình và có công với CS trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam 1954-1975 cũng bị chúng tìm mọi cách hảm hại(Ðiển hình như linh mục Nguyễn Ngọc Lanvà linh mục Chân Tín.) còn những ai chống lại chủ trương độc tài của CSVN thì chịu nhiều hình phạt tù đày tịch thu đất đai của giáo hội, đôi khi còn bị thủ tiêu hay bị giết hại (Như vụ LM Trần Ðình Thủ thuộc dòng Ðồng Công Thủ Ðức) .Linh Mục Nguyễn Văn Lý thuộc giáo xứ Nguyệt Biều, Huế chỉ vì phản đối tính cách đàn áp tôn giáo của CSVN mà đã bị giam 14 năm và quản lý hành chánh (giam lỏng) hàng chục năm. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vụ Vinh Sơn nổi dậy chống độc tài thì CSVN đã giam cùm khác nghiệt cho đến chết trong tù năm 1985.Sự chống đối một cách ôn hoà của Giám Mục Nguyễn Kim Ðiền đã trả giá bằng chính sinh mạng ngài.

c)- Những chức sắc tôn giáo khác như Cao Ðài,Hoà Hảo,Tin Lành cũng không tránh khỏi số phận ,tùy theo mức độ phục tòng hay thái độ chống đối ít hay nhiều thảy đều bị theo dỏi , đe dọa,bạo hành hay bị sát hại không thương tiếc.Những vụ chống đối tiêu cực nhu tự thiêu đồng loạt 12 tu sĩ tại chùa Dược Sư ,Cần Thơ tháng 11 năm 1975 để phản đối sự cai trị độc ác của CSVN đối với Phật Giáo và sau đó đến nay còn có 10 vị ni sưlần lượt tự thiêu để đòi hỏi Tự Do Tôn Giáo tại VN.Giáo Hội PG Hoà Hảo đã có 2 vụ tự thiêu và hàng trăm vụ biểu tình phản đối chế độ hà khắc Tôn Giáo. Ðạo Cao Ðài đã bị tịch thu Toà Thánh,các thánh thất bị đưa vào cai quản bởi nhà nuớc.

Vụ tự thiêu tại Thiền Viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ 1975 là ngòi nỗ đầu tiên làm bùng lên cao trào Pháp Nạn cộng sản, từ đó lại lan rộng ra khắp nơi. Thiền viện Dược Sư thuộc Ấp Tân Long A, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ; nằm cách thành phố Cần Thơ khoảng 30 Km, trên quốc lộ Cần Thơ – Sóc Trăng.Diễn biến vụ án :

Ngày 2 tháng 11 năm 1975(tức ngày 29 tháng 9 Ất Mão)xảy ra vụ tự thiêu cùng lúc của 12 vị tăng ni ở Thiền Viện Dược Sư để phản đối cộng sản đàn áp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. 12 vị đó là những thành viên GHPGVNTN – Thánh Tử Đạo-chi giác linh :

Đại đức Thích Huệ Hiền (Phạm Văn Có), 30 tuổi, trụ trì Thiền viện Dược sư.
Sa di Thích Minh Thạnh (Trần Văn Sang), 20 tuổi
Sa di Thích Minh Hiển (Phạm Văn Anh), 17 tuổi.
Thích Nữ Diệu Phước (Nguyễn Thị Tiếp), 58 tuổi.
Thích Nữ Diệu Định (Lê Thị Thiền), 54 tuổi.
Thích Nữ Diệu Tánh (Lê Thị Tâm), 34 tuổi.
Thích Nữ Diệu Hạnh (Nguyễn Thị Đạo), 23 tuổi.
Thích Nữ Diệu Trường (Dương thị Mỹ Lệ), 23 tuổi.
Thích Nữ Diệu Thiền (Phạm Thị Nương), 22 tuổi.
Thích Nữ Diệu Tốt (Trần Thị Phương), 17 tuổi.
Thích Nữ Diệu Xuân (Lê Thị Thu), 15 tuổi.
Thích Nữ Diệu Nghiêm (Lê Thị Út), 14 tuổi.

Bản tuyên bố để lại, 12 vị Tăng Ni nêu rõ: “chúng tôi sắp sửa thể hiện việc thiêu thân để bảo toàn chánh pháp, để bảo vệ danh nghĩa của giới Tăng sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc… Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú”…

Đối với đệ tử của Chùa Dược Sư, Đại Đức Huệ Hiền căn dặn: “chúng ta không nên vì cái thân vị kỷ này, không nên nuối tiếc nó, không nên khóc lóc vì nó. Trái lại, chúng ta phải tự hãnh diện là đã sử dụng nó đúng mức, sử dụng nó cho công lý, cho tự do… Nên nhớ không ai cứu ta bằng ta tự cứu ta, không ai giải thoát ta bằng ta tự giải thoát ta”.

Đối với nhà cầm quyền cộng sản, Đại Đức Huệ Hiền đại diện toàn thể Tăng Ni tự thiêu, nêu lên nguyện vọng 6 điểm rồi kết luận rằng: “chúng tôi, Tăng Ni chùa Dược Sư, tha thiết kêu gọi quý vị hãy tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả mọi tôn giáo… Chúng tôi quyết nguyện thiêu thân hôm nay vì chúng tôi nghĩ thà chết vinh hơn sống nhục, thà chết cho chân lý đạo nghĩa hơn sống mà phải theo tà thuyết hại dân”.

– http://tiengnoitudo.wordpress.com/2008/03/31/v%E1%BB%A5-an-12-tang-ni-thi%E1%BB%81n-vi%E1%BB%87n-d%C6%B0%E1%BB%A3c-s%C6%B0-t%E1%BB%89nh-c%E1%BA%A7n-th%C6%A1-t%E1%BB%B1-thieu-cung-luc-nam-1975-d%E1%BB%83-t%E1%BB%91-cao-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-da/

– http://anhduong.info/joomla/index.php?option=com_content&task;=view&id;=857&Itemid;=1

Trước những hy sinh to lớn đó cuả chư Tăng Ni thuộc GHPGVNTN, thử hỏi các vị tăng ni quốc doanh có biết không ?Sự hy sinh cao cả cuả 12 vị tăng ni Phật giáo rất tiếc là không được 1 sự ủng hộ nào cuả nhóm tăng ni Phật Giáo quốc doanh ,cho chúng ta thấy sự vô cảm cuả những vị sư nầy trước đồng đạo bị bức hại .

Về phiá Công giáo thì ra sao?

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadAllArticles.aspx?d=1&dt;=28%2f02%2f2008#52706
VietCatholic News (Thứ Năm 28/02/2008 18:34) :

“ Tuy nhiên Nhóm linh mục Trương Bá Cần với tờ báo “Công giáo và Dân tộc” là những đặc công cộng sản vì họ đã từng hãnh diện vì thành tích này. Họ cũng đã có những bài viết ca tụng đảng Cộng sản và tiếp tay chống phá Giáo hội Việt Nam trong suốt trên 30 năm qua. Chẳng hạn như hai nhân vật LM Nguyễn Thiện Toàn và LM Phan Khắc Từ còn khoe khoang thành tích làm tôi cho cộng sản như thế nào.

…Trong cuộc họp mật của UBĐKCG hai ngày vừa qua 27-28/02/2008, chúng tôi rất hoan nghênh sự đổi chiều và ý hướng từ bỏ hợp tác với cộng sản của một số các linh mục như LM Minh ở Bạc Liêu, LM Phúc ở Nha Trang, v.v… và các nữ tu như nữ tu Nguyễn Thị Mỹ (dòng Bác Ái Vinh sơn), nữ tu Mai Thành (dòng Đức Bà) v.v…

Với kĩ nghệ truyền thông và phương tiện hiện đại ngày hôm nay, những hoạt động của các giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam hoạt động cho cộng sản đã rõ ràng (hiện chúng tôi đã có trong tay rất nhiều hồ sơ mà giáo dân và các xứ đạo tố cáo với những bằng chứng cụ thể một số giáo sĩ đã và đang từng hoạt động với cộng sản, các giáo sĩ này đã từng lạm dụng quyền bính cậy thế của cộng sản để áp bức dân lành và chạy theo quyền lợi và ân huệ Cộng sản ban cho). Chúng tôi chưa công bố những tài liệu này và sẽ không công bố nếu các vị đó tự mình và công khai từ bỏ việc cộng tác với cộng sản. Chúng tôi hy vọng trong một thời gian ngắn các linh mục và tu sĩ đang còn cộng tác với Cộng sản hãy chọn con đường trở về trong cương vị đích thực của mình trong Giáo hội.

Cũng thế, ngày nay, các vị Giám mục và Hàng Giáo Phẩm Việt Nam cần phải có thái độ quyết tâm và dứt khoát, với lập trường can đảm bắt đầu một tiến trình thanh tẩy hàng ngũ và có thái độ cứng rắn với những linh mục hay tu sĩ mà các vị giám mục biết rõ đang hoạt động cho cộng sản thì phải cảnh giác đòi buộc họ phải trở vể với đời sống linh mục chính hiệu, từ bỏ con đường chính trị làm tay sai cho cộng sản. Đây là lập trường và đường lối chung của Giáo hội, của Vatican mà các Đức giáo Hoàng cận đại đã từng lên tiếng. Các Giám Mục Ba Lan và các Hội Đồng Giám Mục Đông Âu là tấm gương.

Hàng Giám Mục Việt Nam không phải đợi đến khi chế độ Cộng Sản Việt Nam tan rã thì mới lên tiếng. Các Ngài có trách nhiệm luân lý và tinh thần trong cương vị là mục tử đích thật của Giáo hội, cần phải can đảm đối diện với những vết thương đã từng làm tê liệt và phá hoại Giáo hội Việt nam trong mấy thập niên qua. Nếu giáo dân Việt Nam đã chứng tỏ lòng quả cảm đứng lên bênh vực cho chân lý và công lý, thì hàng giám mục và giáo sĩ lại cần phải can đảm và nêu gương sáng cho tập thể Công giáo Việt nam. Các vị không còn lý do gì để thối thác trách nhiệm trước lương tâm và trước mặt Chúa, khi các vị được trao phó trách nhiệm dẫn dắt, chăm sóc, bênh đỡ, bảo toàn và nêu gương sáng cho đoàn chiên của mình.”

b- Bị địch thâm nhập ngay từ đầu:Từ Công Giáo ,Phật Giáo,Cao Đài,Hoà Hảo ,Tin Lành và các đoàn thể chính trị đã bị CSVN cài người vào trong tổ chức .Theo chủ trương cuả chủ nghiả CS là gây chia rẻ các tôn giáo với nhau và chìa rẻ trong nội bộ tôn giáo.CSVN đã cho cán bộ đặc tình len lỏi vào các nơi mà chúng nghi ngờ.

http://www.vnagency.com.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/183251/Default.aspx

Trong Công Giáo ,CSVN đặt cán bộ từng tỉnh,huyện . “ Ông Huỳnh Đảm bày tỏ mong muốn Giám mục tiếp tục động viên đồng bào giáo dân thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác tôn giáo và đặc biệt là tích cực tham gia xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng trong sạch, vững mạnh. Giám mục Nguyễn Văn Sang nhấn mạnh việc Chủ tịch nước quyết định trao tặng Huân chương Đại đoàn kết cho giáo phận Thái Bình đã đem lại niềm phấn khởi cho các linh mục, chức sắc và giáo dân giáo phận Thái Bình, bởi đây là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước, Mặt trận đối với những đóng góp của giáo phận trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc.”

http://www.vietnamexodus.org/vne/vnenews/thoisu/DANHSACHNHUNGGIAOSIHOPTACVOICHEDOVIETGIAN.htm

Dưới đây là danh sách các giáo sĩ hợp tác với CSVN . Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam nhiệm kỳ 2004-2009.

LINH MỤC THIỆN CẨM

Ủy viên Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Đoàn kết Công giáo VN
Uỷ viên hội đồng Tư vấn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Uỷ viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh

   LINH MỤC NGUYỄN CÔNG DANH

Ủy viên Ủy Ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Phó Chủ tịch Ủy Ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh

Chủ tịch Uỷ Ban Ðoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh

  LINH MỤC NGUYỄN TẤN KHÓA
Chủ tịch Uỷ Ban Ðoàn kết Công giáo VN

NỮ TU NGUYỄN THỊ MỸ
Phó Chủ tịch Uỷ ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh.

  LINH MỤC NGUYỄN ĐỨC HIỆP
Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Công giáo tỉnh Nam Định.

    LINH MỤC PHAN ĐÌNH SƠN
Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Công giáo thành phố Cần Thơ.

  LINH MỤC ĐINH TRÍ THỨC
Xứ Đồng Quang, Hà Hải, Hà Trung, Thanh Hóa.

  DANH SÁCH UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO VIỆT NAM (tức Công Giáo Quốc Doanh) NHIỆM KỲ IV (2002-2007)

Stt Họ và tên Địa chỉ

1  Linh mục Đinh Xuân An Đền thánh Phú Nhai, Xuân phương, Xuân Trường, Nam Định
2  Linh mục Đặng Công Anh Số 142 Ngô Mây, Tp,Quy Nhơn-Bình Định
3  Linh mục Phạm Đình Bảo Nhà thờ An tôn, xã Tân Hiệp B-Tân Hiệp, Kiên Giang.
4  Linh mục Trần Minh Cẩm Số 229 Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh
5  Linh mục Trương Bá Cần Số 370 Cách mạng tháng 8, quận 3,Tp Hồ Chí Minh
6  Linh mục Nguyễn Cấp Nhà thờ Mằng lăng-Tuy An-Phú Yên -05786550
7  Linh mục Bùi Trung Châu Số 381 Lê Lợi, thị xã Châu Đốc,An Giang
8  Linh mục Lê Đình Chiến Số 202 Trần Cao Vân, Tp Đà Nẵng
9  Nữ tu Hồ Thị Chính Dòng Mến Thánh Giá Chợ quán, Tp Hồ Chí Minh
10  Linh mục Nguyễn Văn Chính Nhà thờ Trà Lồng, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần thơ.
11  Linh mục Nguyễn Tiến Cử Nhà thờ thị xã tuyên quang, tỉnh Tuyên Quang
12  Linh mục Trần Xuân Cương Nhà thờ Vĩnh an, xã Đức Minh, Đăk Mil, Đắc Lắc
13  Linh mục Nguyễn Công Danh Số 22B Xô viết-Nghệ Tĩnh, Tp hồ Chí Minh
14  Linh mục Nguyễn Trí Dũng Nhà thờ Lê Sơn, huyện Hoà Vang-Quảng Nam
15  Linh mục Đoàn Thái Đức Nhà thờ Rạch Sỏi, thị xã Rạch Giá-tỉnh Kiên Giang
16  Linh mục Nguyễn Sơn Đoài Nhà thờ Phước Thảo, huyện Châu Thành, Trà Vinh,
17  Linh mục Nguyễn Kim Đoan Khu phố 2-Phường Tam Toà-Tp Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
18  Linh mục Nguyễn Vân Đông Nhà thờ đức An,Pleiku, Gia Lai
19  Linh mục Trần Đức Hạnh Nhà thờ Thanh Sơn-Cao Bằng
20  Nữ tu Nguyễn Thị Đức Hạnh Dòng Mến Thánh Giá Xã Đoài, Nghi Diễn, Nghi Lộc Nghệ An
21  Nữ tu Phan Thị Hải Dòng Thánh Phaolô, thành phố Đà Nẵng
22  Linh mục Nguyễn Văn Hậu Nhà thờ Lam Sơn, Phước Hoà, Tân Thành, Bà Rịa-vũng Tàu
23  Linh mục Nguyễn Đức Hiệp Nhà thờ Tứ Trùng, huyện Hải Hậu, Tỉnh Nam Định
24  Linh mục Mai văn Hoàng Nhà thờ Thái Yên, xã Công Chính, H.Nông Cống, Thanh Hoá
25  Linh mục Phạm Đức Hưởng Nhà thờ Tràng Đình, xã Yên Lộc, Can Lộc-Hà Tỉnh
26  Linh mục Ngô Văn Hữu Số 39A Lê Lợi-Khu phố 2-P.10-Bà Rịa-Vũng Tàu.
27  Linh mục Đậu Xuân Khánh Nhà thờ Ngô xá, Cẩm Giang, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh
28  Linh mục Nguyễn Tấn Khoá Số 952 Phan Chu Trinh, Hộp thư 45-Bưu điện Tam Kỳ, tỉnh Quãng Nam
29 Linh mục Nguyễn Văn Khôi Nhà thờ Cầu Rầm, p.Xửa Nam, Tp Vinh nghệ An
30  Linh mục Hoàng Văn Kiểu Xứ Quỹ Nhất, xã Nghĩa Hoà, Nghĩa Hưng Nam Định
31  Linh mục Trần Văn Láng Nhà thờ Tấn Tài, Ninh Thuận UBMTTQ tỉnh Ninh Thuận
32  Linh mục Đinh Ngọc Lễ Nhà thờ Hà Nội, p.13,Q.Gò Vấp, Hồ Chí Minh
33  Linh mục Vũ Thanh Lịch Nhà thờ Châu Sơn, Tp, buôn Mê Thuật, tỉnh Đắc Lắk
34  Linh mục Trần Văn Liên Nhà thờ Tân Thạch, Long Phú, Sóc Trăng
35  Linh mục Nguyễn Tấn Lợi Nhà thờ Vĩnh Mỹ, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
36  Linh mục Phạm Thanh Minh Nhà thờ Thánh Giuse Lao Công, 23/14 Học Lạc, p.8 Mỹ Tho, Tiền Giang
37  Linh mục Vũ Khắc Minh 198 Quang Trung – An Khê, Gia Lai
38  Linh mục Nguyễn Văn Minh Nhà thờ Búng, Hưng định, Thuận An, Bình Dương
39  Linh mục Nguyễn Đức Mười Nhà thờ Kinh 3, Tân Thành, Tân Hưng Tây, Cái Nước, tỉnh Cà Mau
40 Nữ tu Nguyễn Thị Mỹ  42 Tú Xương, Quận 3, Tp Hồ Chí Minh
41  Linh mục Lê Văn Năng Nhà thờ Định Quán, ấp Phú Quý, huyện Định Quán, Đồng Nai
42  Linh mục Nguyễn Nghĩa Nhà thờ Ba Ngòi, huyện Cam Ranh, tỉnh Khánh Hoà
43  Linh mục Phạm Văn Nhượng Số 9 Nguyễn Thái Học, Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
44 Linh mục Phú Oanh Nhà thờ Tình Lam, xã Đại Hành, Quốc Oai, Hà Tây
45  Linh mục Nguyễn Vinh Phúc 0 đường 2/4 Vĩnh Phước, Tp. Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà
46  Nữ tu Nguyễn Thị Phượng Dòng Mến Thánh Giá Bắc Hải, Tp.Biên Hoà, Đồng Nai
47  Linh mục Nguyễn Văn Quang  Nhà thờ Cái Bông, Huyện Ba Tri, Bến Tre
48  Nữ tu Võ Thị Ri Dòng Chúa Quan phòng Việt Nam , Uỷ ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Cần thơ
49 Linh mục Nguyễn Minh Sang Chánh sở Nhà thờ Cái Tầu, Đồng Tháp
50  Linh mục Phan Đình Sơn Nhà thờ Đền Thánh Giuse, Thạnh An, Thốt Nốt, Cần Thơ
51  Linh mục Vũ Hùng Sơn Nhà thờ Phong Cốc, xã Thái bình, Châu Thành, Tây Ninh
52  Linh mục Vũ Văn Tân Hạt trưởng, Nhà thờ Thuỷ Giang, p.10, TpVũng Tầu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tầu
53  Linh mục Đỗ Duy Thản Nhà thơ song Phú, huyện Tam Bình, vĩnh Long
54  LM. Nguyễn Thư Thành Nhà Thờ Mộc Hoá. Long An, Chủ tịch UBĐKCG tỉnh Long an
55  LM. Trần Xuân Thảo Nhà Thờ Hà Nội, TP Biên Hoà, Đồng Nai
56  LM. Đinh Trí Thức Nhà Thờ Đông Quang, xã Hải Hà, huyện Hà Trung, Thanh Hoá
57  LM. Nguyễn Thiện Toàn Nhà thờ Nhân hoà, 38/24 đường Hồ Đắc Di, phường 15 Quận Tân Bình, TP HCM
58  LM Mai Văn Tôn Nhà thờ Phú Hương, xã Dự Quang, Đại lộc,Quảng Nam
59  LM Nguyễn Văn Trạch Thư ký toà giám mục, giáo phận Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
60  LM Đinh  Châu Trân 190 Lê Văn Sĩ, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh
61  LM Nguyễn Chu Trình Nhà thờ dòng Châu Sơn, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình
62  LM Hồ Ngọc Trứ Nhà thờ Cồn Phước, Mỹ Luông, Chợ mới, An Giang
63  LM Quang Minh Tuấn Nhà thờ An Lộc, 474 Ngô Quyền, An Lộc, Bình Long, Bình Phước 
64  LM Phạm Văn Tuyên  Nhà thờ thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên
65  LM Phan Khắc Từ 413 Lê Văn Sĩ, Quận 3 TP. Hồ Chí Minh
66  LM Nguyễn Phước Tường Nhà Thờ Cai Lậy, huyện Cai lậy tỉnh Tiền Giang
67  LM Nguyễn Văn Vinh Nhà Thờ Quản Long, 74 Phan Đình Phùng, Cà Mau
68  LM Nguyễn Văn Vĩnh Nhà thờ Hoà Thuận, TP Nha trang Khánh hoà
69 LM Nguyễn Bình Yên Nhà Thờ Văn Phú, Quảng Văn, Quảng trạch, Quảng Bình
70  LM Khổng Đức Ý Nhà Thờ Thành Triệu, huyện Châu Thành, Bến tre
– http://www.phattuvietnam.net/index.php?nv=News&at;=article&sid;=2747

Danh sách 147 thành viên Hội Đồng Trị Sự (Phật Giáo Quốc Doanh) và 48 thành viên dự khuyết. 1.  Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Tp. Hồ Chí Minh)
2.  Hòa thượng Thích Hiển Pháp (Tp. Hồ Chí Minh)
3.  Hòa thượng Danh Nhưỡng Tỉnh Kiên Giang
4.  Hòa thượng Thích Thanh Tứ Tp. Hà Nội
5.  Hòa thượng Thích Từ Nhơn Tp. Hồ Chí Minh
6.  Hòa thượng Dương Nhơn Tỉnh Sóc Trăng
7.  Hòa thượng Thích Thanh Sam Tỉnh Bắc Ninh
8.  Hòa thượng Thích Thanh Chỉnh Tp. Hà Nội
9.  Hòa thượng Thích Đức Phương Tỉnh Thừa Thiên Huế
10.  Hòa thượng Thích Trí Quảng Tp. Hồ Chí Minh

11.  Hòa thượng Thích Từ Thông Tp. Hồ Chí Minh
12.  Hòa thượng Thích Đồng Huy Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
13.  Hòa thượng Thích Thanh Dục Tỉnh Thái Bình
14.  Hòa thượng Thích Thiện Duyên Tỉnh Quảng Nam
15.  Hòa thượng Thích Thiện Bình Tỉnh Khánh Hoà
16.  Hòa thượng Thích Trí Tâm Tỉnh Khánh Hoà
17.  Hòa thượng Thích Chơn Thiện Tỉnh Thừa Thiên Huế
18.  Hòa thượng Thích Chánh Liêm Tỉnh Quảng Trị
19.  Hòa thượng Thích Thiện Nhơn Tỉnh Bình Định
20.  Hòa thượng Thích Thiện Từ Tỉnh Cà Mau

21.  Hòa thượng Thích Như Niệm Tp. Hồ Chí Minh
22.  Hòa thượng Thích Giác Viên Tp. Đà Nẵng
23.  Hòa thượng Thích Đắc Pháp Tỉnh Vĩnh Long
24.  Hòa thượng Thích Đồng Tâm Tỉnh Ninh Thuận
25.  Hòa thượng Thích Tâm Thủy Tỉnh Phú Yên
26.  Hòa thượng Trần Dạnh Tỉnh Trà Vinh
27.  Hòa thượng Thích Nhuận Thanh Tỉnh Bình Phước
28.  Hòa thượng Thích Pháp Chiếu Tỉnh Lâm Đồng
29.  Hòa thượng Thích Thiện Thanh Tỉnh Long An
30.  Hòa thượng Thích Chơn Thành Tỉnh Bình Thuận

31.  Hòa thượng Thích Giác Toàn Tp. Hồ Chí Minh
32.  Hòa thượng Thích Thiện Nhơn Tp. Hồ Chí Minh
33.  Hòa thượng Thích Giác Quang Tỉnh Thừa Thiên Huế
34.  Hòa thượng Thích Đức Thanh Tỉnh Thừa Thiên Huế
35.  Hòa thượng Thích Giác Dũng Tỉnh Daklak
36.  Hòa thượng Thích Minh Thiện Tỉnh Bình Dương
37.  Hòa thượng Thích Thông Nghiêm Tỉnh Tây Ninh
38.  Hòa thượng Thích Nhựt Huệ Tỉnh Trà Vinh
39.  Hoà thượng Thích Thiện Sanh Tỉnh Sóc Trăng
40.  Hòa thượng Thích Thiện Pháp Tp. Hồ Chí Minh

41.  Hòa thượng Thích Thiện Tâm Tp. Hồ CHí Minh
42.  Hòa thượng Thích Thiện Tánh Tp. Hồ Chí Minh
43.  Hòa thượng Đào Như Tp. Cần Thơ
44.  Hòa thượng Thạch Sock Sane Tỉnh Trà Vinh
45.  Hòa thượng Thích Huệ Tài Tỉnh An Giang
46.  Hòa thượng Lý Sa Muoth Tỉnh Bạc Liêu
47.  Hòa thượng Thích Từ Hương Tỉnh Gia Lai
48.  Hòa thượng Thích Huệ Hà Tỉnh Bạc Liêu
49.  Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh Tp. Hồ Chí Minh
50.  Hòa thượng Thạch On Tỉnh Trà Vinh

51.  Hòa thượng Tăng Nô Tỉnh Sóc Trăng
52.  Hòa thượng Thạch Huônl Tỉnh Sóc Trăng
53.  Hòa thượng Thích Giác Giới Tỉnh Vĩnh Long
54.  Hòa thượng Thích Thanh Đàm Tỉnh Ninh Bình
55.  Hòa thượng Thích Thanh Bích Tỉnh Hà Tây
56.  Hòa thượng Thích Thanh Dũng Tỉnh Bắc Giang
57.  Hòa thượng Thích Nhật Quang Tp. Hồ Chí Minh
58.  Hòa thượng Thích Trung Hậu Tp. Hồ Chí Minh
59.  Hòa thượng Lý Sân Tp. Cần Thơ
60.  Hòa thượng Thạch Bâu Tỉnh Trà Vinh

61.  Hòa thượng Thích Minh Chánh Tỉnh Đồng Nai
62.  Hòa thượng Thích Thiện Huệ Tỉnh Đồng Tháp
63.  Thượng tọa Thích Huệ Đức Tỉnh Hậu Giang
64.  Hòa thượng Thích Lưu Đoan Tỉnh Trà Vinh
65.  Hòa thượng Thích Huyền Thông Tỉnh Kiên Giang
66.  Hòa thượng Thích Phước Đường Cộng hoà Pháp
67.  Hòa thượng Danh Đổng Tỉnh Kiên Giang
68.  Hòa thượng Thạch Sên Tỉnh Trà Vinh
69.  Hòa thượng Danh Dĩnh Tỉnh Kiên Giang

70.  Hòa thượng Thích Nguyên Phước Tỉnh Bình Định
71.  Hòa thượng Thích Thiện Tấn Tỉnh Quảng Trị
72.  Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu Tp. Hà Nội
73.  Thượng tọa Thích Thanh Duệ Tp. Hà Nội
74.  Thượng tọa Thích Gia Quang Tp. Hà Nội
75.  Thượng tọa Thích Hạnh Lạc Tỉnh Quảng Ngãi
76.  Thượng tọa Thích Huệ Minh Tỉnh Tiền Giang
77.  Thượng tọa Thích Nhựt Tấn Tỉnh Bến Tre
78.  Thượng tọa Thích Huệ Trí Tp. Hồ Chí Minh
79.  Thượng tọa Thích Quảng Tùng Tp. Hải Phòng
80.  Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm Tp. Hà Nội

81.  Thượng tọa Thích Thanh Điện Tp. Hà Nội
82.  Thượng tọa Thích Tôn Thật Tp. Hồ Chí Minh
83.  Thượng tọa Thích Đạt Đạo Tp. Hồ Chí Minh
84.  Thượng tọa Thích Thiện Đức Tp. Hồ Chí Minh
85.  Thượng tọa Thích Hạnh Nghiêm Tỉnh Nam Định
86.  Thượng tọa Danh Lân Tỉnh Kiên Giang
87.  Thượng tọa Diệp Tươi Tỉnh Trà Vinh
88.  Thượng tọa Châu Sơn Hy Tỉnh An Giang
89.  Thượng tọa Thích Hoằng Từ Tỉnh Tiền Giang
90.  Thượng tọa Danh Thiệp Tỉnh An Giang

91.  Thượng tọa Thích Khế Chơn Tỉnh Thừa Thiên Huế
92.  Thượng tọa Thích Hải Ấn Tỉnh Thừa Thiên Huế
93.  Thượng tọa Thích Thiện Thống Tỉnh An Giang
94.  Thượng tọa Thạch Hà Tỉnh Cà Mau
95.  Thượng tọa Thích Minh Thiện Tỉnh Long An
96.  Thượng tọa Sơn Ngọc Huynh Tỉnh Vĩnh Long
97.  Thượng tọa Thích Thanh Nhã Tp. Hà Nội
98.  Thượng tọa Thích Thiện Nguyện Tp. Đà Nẵng
99.  Thượng tọa Thích Trí Thắng Tỉnh Quảng Ngãi
100.  Thượng tọa Thích Viên Quán Tỉnh Gia Lai

101.  Thượng tọa Thích Huệ Thông Tỉnh Bình Dương
102.  Thượng tọa Thích Huệ Hiền Tỉnh Đồng Nai
103.  Thượng tọa Thích Huệ Trường Tp. Cần Thơ
104.  Thượng tọa Thích Thiện Bảo Tp. Hồ Chí Minh
105.  Thượng tọa Thích Bửu Chánh Tỉnh Đồng Nai
106.  Thượng tọa Thích Tâm Đức Tp. Hồ Chí Minh
107.  Thượng tọa Thích Thiện Tiến Tỉnh Ninh Thuận
108.  Thượng tọa Thích Thanh Liên Tỉnh Thừa Thiên Huế
109.  Thượng tọa Thích Tấn Đạt Tp. Hồ Chí Minh
110.  Thượng tọa Thích Châu Quang Tỉnh Daklak

111.  Thượng tọa Thích Quảng Xả Tỉnh Kontum
112.  Thượng tọa Thích Nguyên Chơn Tỉnh Bình Định
113.  Thượng tọa Thích Thanh Phúc Tp. Hà Nội
114.  Thượng tọa Thích Thanh Đạt Tp. Hà Nội
115.  Thượng tọa Thích Thanh Giác Tp. Hải Phòng
116.  Thượng tọa Thích Thanh Hiện Tỉnh Hưng Yên
117.  Đại đức Danh Lung Tp. Hồ Chí Minh
118.  Đại đức Thích Quảng Hà Tỉnh Nam Định
119.  Đại đức Thích Thanh Chính Tỉnh Hà Tây
120.  Đại đức Thích Tiến Đạt Tỉnh Hà Tây

121.  Đại đức Thích Tâm Nhẫn Tỉnh Hà Nam
122.  Đại đức Thích Minh Tiến Tp. Hà Nội
123.  Đại đức Thích Đức Thiện Tp. Hà Nội
124.  Đại đức Thích Tâm Đức Tỉnh Thanh Hoá
125.  Đại đức Thích Thanh Vân Tỉnh Hải Dương
126.  Thượng tọa Thích Thanh Quyết Tỉnh Quảng Ninh
127.  Đại đức Thích Nguyên Thành Tỉnh Thái Nguyên
128.  Đại đức Thích Minh Nghiêm Tỉnh Phú Thọ
129.  Đại đức Thích Quảng Truyền Tỉnh Lạng Sơn
130.  Thượng tọa Thích Thanh Phụng Tỉnh Bắc Ninh

131.  Đại đức Thích Quảng Tuấn Tỉnh Dak Nông
132.  Đại đức Thích Thanh Phong Tp. Hồ Chí Minh
133.  Ni trưởng Thích nữ Ngoạt Liên Tp. Hồ Chí Minh
134.  Ni trưởng Thích nữ Đàm Nhượng Tỉnh Nam Định
135.  Ni trưởng Thích nữ Đàm Hảo Tp. Hà Nội
136.  Ni trưởng Thích nữ Tràng Liên Tp. Hồ Chí Minh
137.  Ni trưởng Thích nữ Như Ngọc Tp. Hồ Chí Minh
138.  Ni sư Thích nữ Huệ Từ Tp. Hồ Chí Minh
139.  Ni sư Thích nữ Đàm Khoa Tỉnh Hà Tây
140.  Cư sĩ Võ Đình Cường Tp. Hồ Chí Minh

141.  Cư sĩ Tống Hồ Cầm Tp. Hồ Chí Minh
142.  Cư sĩ Tăng Quang Tp. Hồ Chí Minh
143.  Cư sĩ Trần Tuấn Mẫn Tp. Hồ Chí Minh
144.  Giáo sư Lê Mạnh Thát Tp. Hồ Chí Minh
145.  Cư sĩ Lương Gia Tĩnh Tp. Hà Nội
146.  Cư sỹ Nguyễn Thắng Nhu Tỉnh Thừa Thiên Huế
147.  Cư sỹ Bùi Trọng Cường Tỉnh Hà Tĩnh

UỶ VIÊN DỰ KHUYẾT

  1.  Hòa thượng Thích Huệ Ấn ( Thừa Thiên Huế)
2.  Hòa thượng Thích Chí Đạo(Quảng Nam)
3.  Hòa thượng Thích Huệ Minh (Tp. Hồ Chí Minh)
4.  Hòa thượng Thích Như Ý (Khánh Hoà)
5.  Hòa thượng Chau Cắt ( An Giang)
6.  Hòa thượng Thích Minh Thông (Tp. Hồ Chí Minh)
7.  Hòa thượng Thích Như Tước(Vĩnh Long)
8.  Hòa thượng Thích Toàn Đức ( Lâm Đồng)
9.  Hòa thượng Danh Nhuônl (Kiên Giang)

10.  Thượng tọa Thích Từ Tánh (Tp. Đà Nẵng}
11.  Thượng tọa Thích Như Quang ( Bình Định)
12.  Thượng tọa Thích Viên Đạt ( Bình Định)
13.  Thượng tọa Thích Hạnh Niệm ( Quảng Nam)
14.  Thượng tọa Thích Giác Liêm (Tp. Hồ Chí Minh)
15.  Thượng tọa Thích Thanh Ngọc (Tp. Hồ Chí Minh)
16.  Thượng tọa Trà Kla Leng ( Sóc Trăng)
17.  Thượng tọa Tăng Xà Vong (Bạc Liêu)
18.  Thượng tọa Hộ Chánh (Tp. Hồ Chí Minh)
19.  Thượng tọa Pháp Chất (Tp. Hồ Chí Minh)

20.  Thượng tọa Thích Lệ Trang (Tp. Hồ Chí Minh)
21.  Thượng tọa Thích Minh Thành (Tp. Hồ Chí Minh)
22.  Thượng tọa Thích Giác Nhân ( Tiền Giang)
23.  Thượng tọa Thạch Oai (Trà Vinh)
24.  Thượng tọa Thích Thiện Trí (Tp. Hồ Chí Minh)
25.  Thượng tọa Thích Thanh Hùng (Tp. Hồ Chí Minh)
26.  Thượng tọa Thích Nhật Ấn (Tp. Hồ Chí Minh)
27.  Đại đức Thích Truyền Cường (Tp. Hồ Chí Minh)
28.  Đại đức Thích Thiện Hạnh (Tp. Hồ Chí Minh)
29.  Đại đức Lý Vệ (Hậu Giang)

30.  Đại đức Lý Hùng (Cần Thơ)
31.  Đại đức Thích Thanh Huân ( Hà Nội)
32.  Đại đức Thích Minh Trí ( Hà Nội )
33.  Đại đức Thích Chiếu Tạng ( Vĩnh Phúc)
34.  Đại đức Thích Minh Hiền ( Hà Tây)
35.  Đại đức Thích Trí Chơn (Tp. Hồ Chí Minh)
36.  Đại đức Thích Minh Huy (Yên Bái)
37.  Đại đức Thích Thọ Lạc ( Ninh Bình)
38.  Đại đức Thích Đức Nguyên ( Hoà Bình)
39.  Đại đức Thích Thanh Đường ( Cao Bằng)

40.  Đại đức Thích Thiện Thành (An Giang)
41.  Đại đức Thích Phước Nguyên (Tp. Hồ Chí Minh)
42.  Đại đức Thích Phước Nghiêm (Tiền Giang)
43.  Đại đức Thích Huệ Khai ( Đồng Nai)
44.  Đại đức Thích Thiện Minh (Tp. Hồ Chí Minh)
45.  Đại đức Quách Thành Satthana (Bà Rịa Vũng Tàu)
46.  Ni trưởng Thích nữ Huệ Hương (Đồng Nai)
47.  Ni sư Thích Đàm Nghiêm (Hà Nội)
48.  Sư cô Thích nữ Tín Liên (Tp. Hồ Chí Minh)

-http://www.phattuvietnam.net/index.php?nv=News&at;=article&sid;=2709
Danh sách ủy viên Ban thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN (Phật Giáo Quốc Doanh)nhiệm kỳ VI (2007 – 2012)

http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=53117

Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Việt Nam và 10 điều nghịch lý :

“- Danh từ Đoàn Kết đã đặt sai mục tiêu vì cho thấy manh nha “chia rẽ” trong chính nhóm của họ. Kèn cựa, quan liêu, tham quyền danh lợi để “có xe riêng, người lái xe riêng”. Qua 2 bài viết về Tòa Khâm Sứ Hà Nội họ đang đổ mọi tội lên đầu linh mục cán bộ Trương Bá Cần. Cơ hội giành dựt quyền của nhau chăng?

– UBĐKCGVN (tức Công Giáo Quốc Doanh)không sống bằng sức lực phục vụ tâm linh, nhưng bằng đồng tiền đóng thuế của 80 triệu dân Việt Nam. Một số tiền không nhỏ của người dân để nhóm bé xíu này tha hồ phung phí. Dĩ nhiên người phát tiền có quyền lèo lái họ.”

– Số phận cuả nhóm tôn giáo quốc doanh Phật Giáo,Công Giáo,Cao Đài,Hoà Hảo,Tin Lành sẽ ra sao khi mà các tôn giáo chính thống ra mặt chống đối quyết liệt với bạo quyền khiến chúng phải nhượng bộ.Vai trò tôn giáo quốc doanh lộ rỏ nguyên hình là 1 công cụ tay sai,bạo quyền sẽ trực tiếp nói chuyện với càc tôn giáo chính thống.

Tóm lại :Sự việc im lặng trước tội ác cuả CSVN, im lặng trước nổi đau khổ cuả đồng loại, đồng đạo là 1 tội ác .Những việc làm của nhóm Tôn Giáo quốc doanh ở các tôn giáo :Phật Giáo,Công Giáo ,Cao Đài ,Hoà Hảo ,Tin Lành phải được công khai hoá , để mọi người dân trong nước bày tỏ thái độ phĩ nhổ đám người nhưng không còn tình người nầy .Kinh nghiệm cuả Ba Lan những tu sĩ Công Giáo Quốc Doanh tiếp tay với bạo quyền đang lần lượt bị phanh phui và kết án.Không thể để bọn tôn giáo Quốc Doanh nầy nhơn nhơn tự đắc chểm chệ trên những chiếc xe hơi đắt tiền,có tài xế riêng hẳn hoi,lảnh lương cuả CS , được cấp nhà lớn để phục vụ cho bạo quyền bằng chính tiền đóng thuế của dân VN.

c- Chưa thống nhất, phối hợp hoạt động giửa các đoàn thể, tôn giáo:

Khi tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo, mục tiêu chung là toàn thể các tôn giáo phải được tôn trọng ,do đó khi có tôn giáo bạn bị tấn công, đe doạ thì càc tôn giáo khác củng phải lên tiếng phản đối ,vưà để tạo đoàn kết các tôn giáo,vừa để tạo áp lực đối với chính quyền khi chúng ra tay đàn áp 1 tôn giáo nào thì sẽ e ngại các tôn giáo khác đồng thanh phản đối việc làm của chúng.Không nên giử thái độ im lặng,thụ động với mục đích để bảo vệ riêng tôn giáo mình không bị đàn áp,bởi vì sau khi đàn áp tôn giáo nầy xong ,CSVN sẽ quay ra trấn áp tôn giáo kế tiếp.Từ 30 năm qua ,giải pháp thụ động ,im lặng của các tôn giáo đánh dấu sự thành công của CSVN. Rất hiếm thấy các hoạt động hổ trợ hay ủng hộ tinh thần chứ đừng mong là có phối hợp hành động giửa các tôn giáo.Vì sao? Vì các tôn giáo đối nghịch nhau ,hay khác chí hướng đấu tranh?Xin thưa ,thực tế các tôn giáo từ mấy chục năm nay bị CSVN dùng chính sách chia để trị,nhất là gây chia rẻ các tôn giáo,gây chia rẻ trong nội bộ từng tôn giáo mà chúng luôn coi là kẻ thù nguy hiểm cuả chế độ. Sự phối hợp hành động của các tôn giáo ,sự đồng lòng sẽ khiến cho CS bị chia sẻ lực lượng,lúng túng và bị động phải giảm hay bỏ hẳn đàn áp tôn giáo.

Đôi khi quý vị lãnh đạo tôn giáo còn có những hành động đáng nghi ngờ :

“Ngày Thứ Bảy 10/05/2008 GM Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã cùng Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, Tổng Thư Ký Hội Đồng, đến chùa Quán Sứ Hà Nội thăm và chúc mừng các vị chức sắc và đồng bào Phật tử nhân dịp đại lễ Vesak, đồng thời trao thư chúc mừng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và sứ điệp của Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn của Tòa Thánh Vatican gửi các Phật tử thế giới nhân dịp đại lễ này.

…Hội đồng Giám Mục Việt Nam không biết chuyện này hay sao?

Hay biết nhưng cố tình làm ngơ, chỉ giao thiệp với Giáo Hội Phật Giáo mà chính quyền cho phép, bất chấp sự không hài lòng của một thành phần Phật Giáo khác, quan trọng, đông đảo và không quốc doanh?

Như thế làm sao tạo được tình đoàn kết dân tộc, tình liên đới giữa các tôn giáo?

… Sự khôn ngoan tối thiểu đòi hỏi các giáo sĩ không nên tạo cảm tưởng là các linh mục đứng về một phe trong cuộc tranh chấp giữa hai phe Phật Giáo đang diễn ra quyết liệt ở cả trong lẫn ngoài nước.



Đặt giả thiết nếu có một thông điệp tôn giáo nào đó được gửi cho các “cha” thuộc Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo và Dân Tộc mà không gửi cho Hội Đồng Giám Mục, các ngài sẽ nghĩ sao?”

(http://www.luongtamconggiao.com/pages/tp.asp?topicID=3710&categoryID;=2&subcateID;=7 )

d- Chưa tạo ra được phong trào Đấu Tranh mạnh mẻ để được quốc tế ủng hộ:

Hiện nay lập luận cuả nhiều người tại Hải Ngoại,xin đưa ra để cùng xem xét:

“Phải đặt mình vào điạ vị người trong nước, mới thấy rỏ sự khó khăn cuả họ khi đối đầu với bạo quyền CS .Nào là lo sợ mất việc,bị kêu lên,kêu xuống,hù dọa,có thể bị tù dài hạn chưa kể là chúng còn xài luật rừng rú cho xả hội đen đàn áp v.v….người hải ngoại không phải đối đầu với bạo quyền ,có tự do nói gì cũng được. Đấu tranh trong nước khổ sở trăm bề,tiền bạc không có biết làm sao đây,Hải ngoại phải chi viện nhiều hơn nửa thì mới có phương tiện đấu tranh!”

Nghe qua thí cũng có lý ,có tình. Đồng ý là Hải ngoại nên yểm trợ tận tình bằng tinh thần lẩn vật chất.Nhưng đừng quên những điều cốt lỏi:

– Việc đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ chủ yếu là cho quyền lợi người dân trong nước chớ không phải cho hải ngoại. Đó là vì người dân VN không có thể sống dưới chế độ độc tài nửa,họ phải vùng lên .

– Không có công cuộc đấu tranh nào dể dàng ,cũng không thể xin mà có sự Tự Do,phải dành lấy nó bằng mồ hôi và cả xương máu mới có.

– Có viện trợ thì mới có đấu tranh,như vậy động cơ đấu tranh là vì tiền sao? Sẽ mất chính nghiả và CS sẽ dưa vào đó mà kết tội người đáu tranh và kết tội cho họ làm vì tiền ,nhất là tiền cuả ngoại quốc.

Các cuộc Cách Mạng tại Đông Âu thập kỷ 90 có phần đóng góp tài chánh cuả Tây phương và nhất là của Hoa Kỳ,nhưng chủ yếu Cách Mạng thành công là do người dân ở đó một lòng muốn lật đổ chế độ Cộng sản nên toàn dân đồng lòng nổi dậy chớ không phải vì tiền rót vào.Lịch sử đã chứng minh :những cuộc Cách Mạng trên thế giới nào không có yểm trợ ngoại bang,không có tiền bạc xen vào thì đó là Cách mạng chân chính.Khí thế đấu tranh của dân Tây Tạng (tập trung hàng chục ngàn dân ),sự dấn thân (hàng trăm người hy sinh,hàng ngàn người bị thương) của sư sải,sinh viên ,mọi tầng lớp dân chúng Tây Tạng đã làm cho Thế Giới kinh ngạc và thán phục .Nhưng chưa đủ lực,nếu có sự tiếp tay của hàng trăm ngàn,hàng triệu dân Tây Tạng thì mới thành công!Vì lúc đó toàn thế giới thấy được tấm lòng của toàn dân Tây Tạng và họ sẽ đồng lòng ủng hộ giải trừ quốc nạn cuả Tây Tạng.

Ngày nào chế độ độc tài tại Việt Nam được xoá đi và người dân kết luận : Đó là một cuộc Cách Mạng chân chính, đó là ý muốn cuả toàn dân Viêt(không có sư can thiệp,thúc đẩy cuả cường quốc nào),bằng mồ hôi và xương máu cuả toàn dân,không có trợ giúp tài chánh (cuả quốc tế hay hải ngoại)mà vẫn thành công thì đó là điều mong ước tốt đẹp nhất của Dân Tộc Việt Nam.

Long Điền 28.05.2008

https://vietnamtuoitreuocvong.blogspot.com/2021/01/nhan-inh-tinh-hinh-au-tranh-quoc-noi-va.html